PHẦN MỘT : NGUYỄN ÁNH - VUA GIA LONG (1762 -1820)
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa
nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành
vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn
kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10
tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh
đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng
chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14
tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là
đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên
Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn
quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra
Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà
những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã
trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong
tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận
Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785.
Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi
dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn
Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ
Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và
cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong
lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch
sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem
là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong
lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành
một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với
thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là
Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị
(City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền
Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời
chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước
Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú
Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao
giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua
giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc
bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là
Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước
Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho
Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối
mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù
cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn
Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương
Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân
phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo
thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn
tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước
để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng
những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau
này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước
Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính
đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles
đâu !
Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ
tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một
số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung
coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo
tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà,
rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để
tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn
Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn
rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là
do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay
là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn
Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị
giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không
còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ
Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ
có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ
Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương
và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản
chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước
chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông
vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát
ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau
những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan
là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” –
không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông
anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ)
thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm”
nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung
ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em
sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã
ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối
thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây
Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy
làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây
Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống
ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là
một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều
“lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn –
Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng
trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự
nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San
đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi, không cao diệu,
Người chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải
đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh
thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm
cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba
“thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh
Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách
để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân
tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT
NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử
dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm
phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê
Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau)
chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị
ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành
chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ
thôi.
01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra
“khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh –
trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia
Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn
Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức,
Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân
gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của
Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ
80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc
đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang
dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc
vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn
Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế
Trà My”…
01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng
Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được –
một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi
một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc
mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam.
Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến
chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN
GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy
chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”.
Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan
Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng
của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?
Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng
NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại
lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có
thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ
HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút
ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang
Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…)
– ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở
cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe
tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian
trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa,
đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức
Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể
CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà
chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ”
(XV):
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra !
Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là
một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ
suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm
sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa
hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy
đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo),
10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố
Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông
dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu
– bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê
vào đơn:
Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi !
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta !
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !
02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ
đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc
thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn
Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn
! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái
ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.
Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của
UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du
lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN
thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn
bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi
cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt
Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT
YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !
03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng
giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại
được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê
Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay
đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế
này:
03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung”
của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là
vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con
đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất
lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng
tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với
Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm
(1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và
lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người
em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh. Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị
kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết
định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can
ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !
Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.
Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ
là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm
và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy
khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt !
Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học
(psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời
các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh ?
Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.
03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã
Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc
Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép: Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin
cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý.
Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành
và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên
cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ
Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả
ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết –
phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy
chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại.
Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói
và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn
đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi
thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và
trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và
dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay
được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.
Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia
Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành
(“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông
Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu
của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô
danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là
Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây
Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”).
Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt
ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù
tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông
cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau
ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.
03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu
Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài
quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua
lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn
này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự
tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời
trung học Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để
thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê
nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn
và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di
tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh
Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở
thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo –
giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông
bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc
chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu
Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu”
theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã
được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua
Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm
ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm
ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang
gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được
trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND
xã.
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé
thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo
lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”,
vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải
cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì
bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói
thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu
quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò
lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”,
rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của
mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức
(1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới
Quý Hương !
03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn,
kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn
chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh
này.
Thật là lạ ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng
Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) –
người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao
Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng
Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”,
miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc
nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.
03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra
Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh
ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ
sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: -
Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy
tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta
chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ
Trịnh trình cho ta biết !
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố
GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực,
đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn
cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia
Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông)
trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường”
và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu
lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương
Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống
lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của
Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường”
hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò
của NGUYỄN ÁNH ?
Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc
và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học
chính tông.
Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực
khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về
một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời
nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
Mùa thu tháng Tám, 1996
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét