Cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị) nổ ra vào mùa xuân
năm Canh Tý (40 Công nguyên là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu
Lạc toàn diện và rộng khắp, chống lại thế lực phong kiến phương Bắc ở
đầu Công nguyên.
Cuộc
khởi nghĩa ấy do bà Trưng Trắc phát động cùng em gái là Trưng Nhị, người
có công lao cùng chị và của rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh trong
hàng ngũ đội quân của Hai Bà.
Đó là
cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ thời
kỳ ấy. Chấm chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần
thứ nhất dài tới 246 năm (207 TCN - 39 CN).
Sử
nước ta viết: ''... Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có
tướng dũng lược, căm giận Tô Định chính lệnh hà khắc tàn ngược tụ họp
người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận
huyện hưởng ứng, cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết đất
cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu..."
Cũng
bởi ý chí anh hùng hào kiệt mà trải qua hàng nghìn năm và mãi mãi về
sau, sự nghiệp và danh tiếng của Hai Bà còn lưu danh. Những sự kiện lịch
sử về hai Bà và cuộc khởi nghĩa năm 40 CN đánh đuổi Tô Định, năm 42 CN
chống Mã Viện xâm lược đã theo dòng thời gian chuyển hóa thành các sự
tích văn hóa, vào huyền thoại, đi vào tâm linh và tín ngưỡng cộng đồng
người Việt Nam.
Những
nơi Hai Bà đã đi qua, những đồn lũy và chiến trận do Hai Bà Trưng cùng
các vị tướng lĩnh lập nên cũng theo đó mà trở nên nơi đền miếu thiêng
liêng thờ cúng khói hương không dứt. Nay là các di tích lịch sử - văn
hóa trên địa bàn Vĩnh Phúc.
Hai
Bà là con gái Lạc Tướng huyện Mê Linh, hậu duệ đời thứ 25 của Vua Hùng -
họ Lạc. Thân mẫu của Hai Bà tên là Trần Thị Đoan (tục danh là bà Man
Thiện), có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ.
Ngày
01 tháng 8 năm Giáp Tuất (14 CN) bà Man Thiện sinh một lần được hai con
gái. Vì là nhà tằm tơ, nên 3 năm sau, mới đặt tên cho cô chị là Trắc
(lứa đầu - ''lứa chắc'' theo cách tính của nhà nuôi tằm), cô em là Nhị
(''lứa nhì''- lần thứ hai)
Năm
19 tuổi, cha mẹ gả cô chị là Trắc, lấy con trai quan Lạc tướng huyện Chu
Diên là Thi Sách tức là năm Canh Thìn (32 CN). Vợ chồng đoàn tụ mới
được vài năm thì Thi Sách bị Tô Định giết chỉ vì con hai nhà tướng kết
hôn với nhau, trở thành một lực lượng lớn, không có nơi cho sự thống trị
của nhà Hán.
Căm
giận quân giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm mối thù nhà, bà Trắc
đã cùng với em là Nhị phát động trong toàn quận Giao Chỉ, tập hợp các
Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân sĩ và nhân dân nổi lên cùng đánh giặc.
Các quận Cửu Chân, Nhật Nam được tin quận Giao Chỉ khởi nghĩa đều nổi
lên hưởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa ấy chia ra các giai đoạn như sau:
I - THỜI KỲ TRƯỚC NGÀY TUYÊN BỐ KHỞI NGHĨA
Sau
khi ông Thi Sách bị giết, bà Trắc quyết chí phục thù trả oán. Bà tiến
hành tổ chức chứa tích lương thực, vận động thu dùng các anh hùng hào
kiệt trung thiên hạ, những người cùng chí hướng, chiêu binh tuyển tướng ở
các địa phương, nên người theo về ngày một đông. Lúc đó thuộc địa bàn
Sơn Tây cũ có:
Liên Chiểu được một người, Phù Sa được một người (sau đổi là Phần Sa, rồi Các Sa, xã Trung Kiên huyện Vĩnh Tường)
Huyện Bạch Hạc có:
- Xã Văn Trưng được 1 người (nay là thôn Văn Trưng xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường)
- Xã Đại Tự được 1 người (nay thuộc huyện Yên Lạc)
- Xã Cẩm Viên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Đại Tự)
- Xã Phủ Yên được 1 người (nay là thôn thuộc xã Yên Lập huyện Vĩnh Tường)
Huyện Yên Lạc có:
- Xã Bình Lỗ được 1 người (có lẽ 1à Tề Lỗ huyện Yên Lạc)
- Xã Mạnh Lân được 1 người (sau là Kim Lân xã Hồng Châu)
- Xã Thọ Lão được 1 người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Yên Lão được 1 người (nay thuộc xã Tiến Thịnh huyện Mê Linh)
- Xã Vân Canh được 1 người (nay thuộc vào thị trấn huyện Bình Xuyên)
Huyện Lập Thạch có:
- Xã Vân Nhưng được 3 người (nay thuộc xã Tân Lập)
- Xã Ân Hộ được 3 người (tục danh làng Họ, nay thuộc xã Tham Sơn)
- Xã Vụ Cầu được 1 người (tục danh làng Cầu, nay thuộc xã Tam Sơn)
Tỉnh Hà Tây có 3 huyện có người ứng nghĩa:
Huyện Tiên Phong có:
- Xã Kim Bí được 1 người
- Xã Tân Hoa được 1 người
Huyện Yên Sơn có:
- Xã Bối Khê được 1 người
- Xã Hữu Quang được 1 người
Huyện Thạch Thất có:
- Xã Tuy Lộc được 1 người
Để
đảm nhận công việc trọng đại ấy, bà Nhị được chị gái cất nhắc làm chức
''Bình khôi'' sau khởi nghĩa phong làm ''Bình khôi công chúa'' - tức là
vị công chúa đứng đầu thu phục thiên hạ. Rồi gửi tờ hịch chiêu dụ mọi
người trong toàn quận Giao Chỉ, bởi vậy các nướng, nữ quân chiếm đa phần
trong tổng số lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.
Nhiều
thư tịch đời sau chép về khí thế ra quân của những ngày ấy mà sự tích
hầu hết đã trở thành huyền thoại: ''Đương thời nam nhi thao lược vị hữu
kỳ nhân; Nữ tướng soái binh thần linh phát động''. Nghĩa là: Lúc ấy nam
nhi tài giỏi chưa có mấy người; Nữ tướng soái binh như có thần thiêng
thúc giục. Bởi vậy, chỉ 15 ngày sau tướng sĩ mọi miền đã tìm đến tụ
nghĩa. Đồng thời bà Trắc đã đến nhiều địa phương vận động khởi nghĩa.
Nơi ấy ngày nay đều có di tích thờ cúng ghi nhận. Bà cũng đã vận động
lên miền thượng lưu sông Đáy, giáp gianh giữa 2 huyện Tam Dương - Lập
Thạch ngày nay tập hợp lực lượng. Nơi bà hội quân với các bà Quý Lan (An
Bình phu nhân) và Ngọc Kinh công chúa là di tích ''Bãi Hội'' ở làng
Đông Định, xã Thái Hoà, Lập Thạch. Nơi ấy nay có đền thờ Bà tạo thành
một vùng căn cứ rộng lớn ở các xã Liễn Sơn, Thái Hoà, Liên Hoà, Hợp Lý
huyện Lập Thạch và các xã Hoàng Hoa, Đồng Tình, An Hoà huyện Tam Dương.
Các di tích trong khu vực sông Đáy:
1 - Xã Liên Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 1 di tích
2 - Xã Liễn Sơn huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 2 di tích
3 - Xã Thái Hoà huyện Lập Thạch (bờ phải sông): 3 di tích
4 - Xã Bồ Lý huyện Lập Thạch (Vực Truông): 1 di tích
5 - Xã Hợp Lý huyện Lập Thạch (bờ trái sông): 1 di tích
6 - Xã An Hoà huyện Tam Dương (bờ trái sông): 3 di tích
7 - Xã Đồng ranh huyện Tam Dương (bờ trái sông): 6 di tích
8 - Xã Hoàng Hoa huyện Tam Dương (bờ trái sông): 2 di tích
Cộng xã: 19 di tích
Tháng
Giêng năm Canh Tý (40CN), tất cả các tướng ở mọi vùng đều đã tiến quân
về họp lại ở thành Phong Châu sông Bạch Hạc để khao thưởng các quân sĩ.
II - KHỞI NGHĨA Ở CỬA SÔNG HÁT
Sau cuộc tổng tập hợp quân đội ở Phong Châu, Hai Bà đã cho quân đội vượt sông sang lập đàn thề ở bãi cát dài cửa sông Hát.
Nơi
ấy nay thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây. Địa điểm cách đê hữu
sông Hồng 6 km, gần chỗ cửa Hát tách ra từ sông Hồng. Tại Hát Môn, Hai
Bà cho quân sĩ dựng đàn tế cáo trời đất, tuyên bố khởi nghĩa. Lời tuyên
như sau:
''Trời
sinh một người làm tông chủ của vạn vật trong trời đất. Muôn vật ràng
buộc vào đấy, cỏ cây quan hệ về đấy. Trải các triều trước các vị đương
thiên tử đều là bậc thánh minh, khiến cho triều đình có đạo Yên dân lo
việc nước, đức hoá mở mang, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có
người hơ khác tên là Tô Định, lòng dạ chớ dê, hăm doạ 4 phương, tham tàn
bạo ngược, trời, đất, thần, người đều căm giận.
Thiếp
là cháu gái của Vua Hùng thuở trước, hôm nay đau lòng thương dân vô
tội, dấy nghĩa trừ tàn nguyện xin các vị thần linh hội họp tại đàn này
chứng giám và phù hộ cho thiếp. Thiếp là Trưng Nữ dấy binh dẹp giặc, che
chở dân lành, thú phục lại muôn vật cũ của tổ tông. Không phụ ý trời,
thoả nguyện nơi đền miếu của các bậc đương các đời, không phụ sự trông
đợi của tổ phụ nơi chín suối''
Tế xong, Hai Bà phân chia các đạo quân, tổ chức quân ngũ. Riêng số các nữ tướng, nữ binh chia làm 2 đội, phong cho các chức:
1 - Lão Tiên công chúa nắng giữ ''Trung quân nội thị''
2 - Công chúa Cẩn Hạnh nắm giữ ''Tiền quân nội thị'' có 500 quân
3 - Công chúa Huệ Đức và Công chúa Trang ranh nắm giữ quân ''nội thị binh nhung''
4 - Công chúa Ả Chàng, Ả Chạ (vì Lê Ngọc Thanh cùng danh hiệu) nắm giữ "Tả quân nội thị", quân nữ có 500 người
5 - Thuỵ công chúa và công chúa Minh Trinh nắm giữ ''Hữu quân nội thị''. Quân nữ có 500 người
6 - Công chúa Minh Nương nắm giữ tiền quân - quân nữ có 100 người
7 - Công chúa Tráng Cẩn nắm giữ ''Tả quân nội thị''. Quân nữ có 100 người
8 - Công chúa Bình Khôi (tức bà Nhị) nắm giữ toàn bộ các vệ ''Nữ quân nội thị...
Còn các tướng nam đều cớ phong chức thu nạp tham gia khởi nghĩa.
Sau đó bà Trắc cùng các tướng sĩ bái lạy trời đất, thống lĩnh quân dân, tiến quân về thành Long Biên đánh Tô Định.
III - CUỘC TIÊN QUÂN MÙA XUÂN NĂM CANH TÝ (42.CN) ĐẠI THẮNG
Trên đường tiến quân, Hai Bà dẫn toàn bộ quân đội về làng Hạ Lôi dựng đồn đóng quân.
Đêm
đó ở Hạ Lôi, (tên thời nội thuộc Hán là Kỳ Họp) có hơn 10 vị tướng dưới
quyền được chọn làm tướng ''thủ túc'' (thân cận, gần gũi như tay chăn),
và có 17 nữ tướng có tài trí ngày đêm thường trực ở bên cạnh Trưng
Vương. Ngày 07 tháng Giêng, bà Trưng mở tiệc lớn khao quân ở Hạ Lôi 10
ngày, rồi chia quân làm 5 đạo.
- Đi tiên phong là Đại Vương Đông Hối
- Trung quân là Nữ Vương Trưng Trắc (ở giữa)
- Tả quân là Minh công dực thánh (?) (bên trái)
- Hữu quân là Lương công dực thánh (?) (bên phải)
Hậu quân là Hiến công (?) và Nhị nương công chúa.
Tất
cả cùng tiến về thành Long Biên đánh Tô Định. Cảnh tượng ngày xuất quân
thật oai hùng: ''Cờ xí đầy đất, chiêng trống vang trời, tướng nam lẫm
liệt, tướng nữ lạnh lùng''. Trước sức mạnh như vũ bão của đội quân Hai
Bà, quân Hán không kịp tổ chức nghênh chiến, chống đỡ, nên khi quân đội
của Hai Bà tấn công, quân của Tô Định chỉ còn biết thua chạy và bị giết
''máu chảy thành ao, xương tụ thành gò'', xác giặc chồng chất làm cho
''dựng sông nghẽn chảy'', Tô Định bị đao chém sát thương. Cuối cùng thì
Tô Định nhanh chóng rút chạy về Trung Quốc, chịu tội với triều đình nhà
Hán. Chẳng bao lâu, trong toàn quận Giao Chỉ, nghĩa quân tổng công kích,
thu phục được 65 thành.
IV - VƯƠNG TRIỀU HỌ TRƯNG
''Đại Việt sử ký toàn thư" chép là ''Trưng Nữ Vương Kỷ''
Đất
nước giải phóng, Hai Bà thu quân về thành Phong Châu. Bà Trưng Trắc lên
ngôi Vương, đứng đầu bộ máy nhà nước độc lập tự chủ. Tiến hành phong
thưởng thứ bậc công thần cho các tướng sĩ. Cắt cử một số tướng sĩ trở về
nơi căn cứ cũ của mình xây dựng doanh điện phòng vệ làm hậu cứ cho
triều đình.
Ở
trung ương, xây dựng bộ máy nhà nước vương triều gồm có 2 ban ''văn -
võ''. Tất cả đều có chữ ''tiết ché' (nghĩa là ''chỉ huyết), đặt quan
chia chức đảm nhận công việc Nhà nước. Lại xây dựng 1 ''Sở hành cung'' ở
xứ đầu voi làng Hạ Lôi làm nơi ''Sở thiết triều'' (nơi bàn việc nước
lưu động). Phía sau xây thành bảo vệ, đời sau gọi là ''thành ống''. Đồng
thời bà Trưng Nhị dựng hai luỹ ở Cư An, đắp thành Đền, tất cả đều nằm ở
phía Tây Bắc ''hành cung'' Hạ Lôi trưng sự bố phòng bảo vệ.
Sau
đó, bà Trưng Trắc đời đô về Hạ Lôi, định trị sở việc nước chính thức là
''hành cung'' xứ đầu voi. Nay là đền Hai Bà. Đất ấy đời Hán là làng Kỳ
Hợp huyện Chu Diên. Từ đó chính trị ổn định, việc nước trong sáng êm
đềm, lòng dân theo phục.
V - CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÃ VIỆN NĂM 42.CN
Năm
41.CN, vua Hán Quang Vũ được tin triều đình Lĩnh Nam đã được xác lập, do
Bà Trưng Trắc làm tôn quân, nên tức tốc hạ lệnh cho các quận, châu,
huyện phía nam là Trường Sa, Hợp Phố và một số nơi thuộc Giao Chỉ sắp
sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, mở đường thông các núi khe, chứa thóc
lương để dự phòng cho cuộc xâm lăng sắp tới. Ngay sau đó, Hán Quang Vũ
lại sai Tô Định dẫn 5 vạn quân đi trước trở lại Giao Chỉ. Mã Viện vui
mừng được Hán Vũ Đế cử làm Phục Ba tướng quân, cho tổng chỉ huy cùng với
phó tướng là Phù Lạc Hầu Lưu Long, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân
đem 30 vạn quân tiến vào nước ta để đánh Trưng Vương.
Quân Hán qua cửa ải Ngọc Quang.
1 - Cuộc Chiến ở thành Lạng Sơn
Được
tin bái về, ở thành Hạ Lôi, Trưng Trắc cử Trưng Nhị và hai đại tướng đem
quân lên đánh chặn giặc, giết chết được Tô Định ngay từ trận đầu giao
chiến. Thấy tình thế thất lợi, sau khi qua ải Ngọc Quan, Mã Viện và Lưu
Long dẫn quân đến thành Lạng Sơn lập doanh luỹ cố thủ thanh thế rất to.
Để
chặn đánh quân địch từ ngoài biên ải, Trưng Trắc dẫn toàn bộ đại quân
lên thành Lạng Sơn cự chiến Mã Viện là viên tướng già (lúc này Viện đã
ngoài 70 tuổi) giảo quyệt, biết Trưng Trắc đã đem hết quân đội lên đánh
thành Lạng Sơn nên ra lệnh cho quân sĩ cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian
tiếp chiến, khiến đại quân của Hai Bà Trưng gặp bất lợi. Mã Viện chơ Lưu
Lang coi giữ 25 vạn quân ở lại cố thủ thành Lạng Sơn, cầm chân quân đội
của Hai Bà Trưng dưới thành, bố phòng ở những nơi hiểm trọng, không
chịu ra đánh. Đại quân của Hai Bà do vậy phải kìm lại vây thành.
2 - Âm mua của Mã Viện
Trong
khi tình thế chiến trận kéo dài im ắng, thì Mã Viện dẫn 5 vạn quân bí
mật xuất phát, không kể ngày đêm, cướp đường mà đi, cấp tốc chỉ trong 5
ngày sau đã đến khu Thanh Trước, dựa vào địa hình núi mà đồn binh, tích
trữ lương thảo. Rồi Mã Viện trước hết tấn công kho quân lương ở Nội Phật
do bà Thánh Mẫu Dưỡng quản lĩnh, đánh tan cơ sở hậu cần của quân đội
Hai Bà. Sau đó Mã Viện tấn công thành Cự Triền.
Cự
Triền là một thành lớn do Bà Trưng Nhị tổ chức xây đắp để phòng thủ ở
mặt tây bắc cho đô thành Mê Linh. Ở mặt trận này tuy quân đội của Bà
Trưng đã tiến lên Lạng Sơn, nhưng do thành được xây đắp kiên cố nên Mã
Viện không dễ dàng hạ nổi. Địa hình lại hoàn toàn bất lợi cho quăn Hán,
vì thành được xây đắp trên gò Dền giữa cánh đồng Dền, bốn bề đồng không
nước ngập, địa hình trở nên phức tạp. Để lấy điểm tựa tập kết quân sĩ
tấn công thành Dền, Mã Viện đã phải hấp tấp đưa vàơ địa thế sẵn có của
một quả gò nhỏ, gọi là gò Viên (dân đã quen gọi là gò Vượn) thuộc cánh
đồng Vượn đắp trong một đêm phải xong.
Một
trận chiến quyết liệt đã diễn ra, cuối cùng thì thành Dền cũng bị hạ.
Đình Cư An xã Tam Đồng, di tích thờ Bà Trưng Nhị có đôi câu đối viết về
sự kiện này. Như sau:
Triền thuỷ ba bình phần tử y hi hàm thánh trạch
Viên thành nguyệt hiểu đống yểm ẩn ước hiện thần quang
Nghĩa
là: Sóng nước quanh đồng triền (đồng Dền) đã yên, cây cối nghĩ rằng có
công ơn của Thánh Trăng soi thành Vượn, bước tới gần gò đống như có như
không, cũng bày ra biến hoá rõ ràng. Sau khi hạ thành Cự Triền, Mã Viện
không mấy khó khăn khi tiến về đánh thành Hạ Lôi, đào mộ cha mẹ Hai Bà,
yết cung điện. Kinh đô Mê Linh phút chốc chìm trong máu. Sau đó, Mã Viện
lại kéo quân lên thành Lạng Sơn, trong đánh ra, ngoài hợp chiến cùng
tiến đánh Hai Bà Trưng từ hai phía.
3 - Trận chiến ở Lãng Bạc
Sau
khi bị tổn thất ở thành Lạng Sơn, lại bị quân Hán bức bách ở mặt trận
phía trước và phía sau, nên Bà Trưng rút quân trở về. Đội quân hai bên
gặp nhau ở Lãng Bạc, địa điểm ở vùng 2 huyện Tiên Du - Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh.
Một
trận quyết chiến đã xảy ra. Sử ''Toàn thư" chép: ''Vua thấy thế giặc
mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui về giữ Cấm
Khê''
4 - Công cuộc cố thủ cấm Khê
Sau
khi rút khỏi mặt trận Lãng Bạc, Trong Vương biết là thành Cự Triện và
kinh đô Mê Linh đã bị thất thủ, Hai Bà tiến lên vùng Cấm Khê thủ hiểm,
tính kế lâu dài. Cấm Khê (sử cũng chép là Kim Khê) là vùng đất ngập nước
bên bờ sông Cà Lồ từ làng Gia Phúc (xã Xuân Đài), qua làng Cẩm La, Phúc
Lộc, Đống Cao của xã Vân Đài, xã Tiên Đài của tổng Vân Đài huyện Yên
Lạc, phủ Vĩnh Tường triều Nguyễn, đến xã Can Bi tổng Xuân Lãng huyện
Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Yên. Trong đó các làng Cẩm La, Phúc Lộc, Yên Nội,
Đống Cao đời Lê trở về trước thuộc xã Vân Đài hoặc Quan Đài cùng với các
xã Xuân Đài Tiên Đài là nơi tập trung nhất về di tích thờ cúng Hai Bà
Trưng.
Ở cấm
Khê, quân Hai Bà bị vây hãm mấy tháng liền. Phía trước không còn đường
tiếp lương, cỏ ngựa, phía sau không có quân cứu viện lại biết thành trì
lăng mộ ở nhà (Hạ Lôi) đã bị Mã Viện phá hết, nhưng không thể tự phá
trận để thoát khỏi vòng vây. Biết rằng cơ nghiệp do chị em gây dựng bấy
nay sẽ khống còn, Bà Trưng Trắc tự khẳng định với mình rằng:
Sinh ra làm người, thà làm quỷ nước Nam, há chau đã bị trói tay bắt sống, bị người Hán phương Bắc làm nhục?
Thế
là Bà chỉ huy toàn quân quyết đánh một trận, quân - thần - tướng - tá
đều bị vây, bị giết ở Cấm Khê. Số còn lại trở về nơi doanh địa cũ rồi
lần lượt bị Mã Viện đánh bại. Thu thắp trong điền dã của chúng tôi trong
khu vực xã Văn Tiến huyện Yên Lạc, thấy có như sau:
- Gò Hang: Thống kê năm 1938 của xã Vân Đài thì trong làng ''có lái đống gọi là gò Hang, nhưng không biết dưới có hang không''.
Ngày
nay gò Hang hiện còn, thuộc thôn Yên Nội. Diện tích khoảng 5 - 6 sào Bắc
Bộ, nhân dân ở đây gọi là gò Cánh Tiên. Hang có cửa vào xây cuốn vòm
như hình chớp bia bằng gạch bìa, ở thành có vạch ô quả trám. Cửa hang
nổi lên trên mặt đất nay mới bị lấp. Chúng tôi nghĩ rằng người xưa xây
như một cái am rồi mới gánh đất đổ lên thành vòm. Gò có ''hang'' ở dưới
nên gọi ''Gò Hang''. Vì vậy đất trên gò gồm nhiều loại, xồm xộp không
hoàn thổ và cỏ không mọc được. Cũng chưa thấy khai thác trồng trọt. Nay
mới lập 1 am nhỏ để mấy nhà bên cạnh gò thắp hương.
Có
thể do có gò Hang là một ngôi mộ cổ dùng gạch xây đời Hán mà vùng này có
địa danh Hi Sơn. Tất nhiên còn chờ ở các tài liệu khảo cổ trong tương
lai. Xung quanh gò Hang còn các địa danh: Thầy Vang, Chùa Tranh, Giếng
Tó, Gò Bắc Bếp; Gò Tổng Binh, Gò Cơn Ngựa.
Thầy
Vang: Chữ ''Thầy'' theo cách giải thích của địa phương nghĩa là ''bờ
lũy''. Thầy Vang nghĩa là bờ lũy Vang. Chữ Vang là địa danh thuộc thôn
Yên Nội.
Chùa
Tranh: Tên chữ là ''Phúc Lâm Tự''. Chùa không thờ bằng tượng Phật mà thờ
bằng ''Tranh Phật''. Chùa Tranh thuộc thôn Đống Cao ở sau đình Đống
Cao. Là một hiện tượng hiếm thấy.
Giếng Tó: Là giếng ở trước đình Đống Cao. Tang và thành giếng làm bằng đất thớ màu vàng. Nước giếng rất trong.
Gò Bắc Bếp: Địa danh thuộc thôn Đống Cao, ở cạnh đình Đống Cao. Đào yên tìm thấy nhiều tro bếp và các ''ông đầu rau''.
Gò
Con Ngựa: ở sau đình Đống Cao, cũng gọi là gò ''Đồng Cũ''. Trống canh
tác nhân dân địa phương tìm thấy nhiều gạch bìa cổ, có vạch. Bờ móng xây
bằng vữa đất, xếp từng lượt khi cày sâu vẫn bật gạch tên.
Dưới làng Vân Đài là làng Tiên Đài được nhân dân giải thích là ''Đài quan sát'' ở phía trước. Làng này xưa chỉ có một họ Trần.
Làng
Xuân Đài, địa danh thời cổ là làng Liễu. ở đây có gò ''Tổng binh'', nơi
cớ đền Gia Phúc thờ Hai Bà Trưng. Cả làng xưa chỉ có một họ Phạm.
Như
vậy xã Văn Tiến ngày nay gồm ''3 làng Đài'' xưa là: Tiên Đài, Xuân Đài
và Vân Đài (hoặc Quan Đài gồm: Cẩm La, Phúc Lộc, Đống Cao, Yên Nội)
Toàn
bộ các cánh đồng cấy lúa trồng màu vùng này xưa kia là vùng đầm lầy bên
bờ sông Cà Lồ. Sau đê sông Cà Lồ bị vỡ vào thời Tự Đức, nên bị bồi lấp
nay thành đồng ruộng. Nay là ruộng đất các xã Nguyệt Đức, Văn Tiến.
Về
giai đoạn cuối cùng của cuộc khởi nghĩa ở Cấm Khê, sử chép: ''Trưng
Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ thếch, đều bị
thất trận chết. Sự nghiệp anh hùng cứu nước của họ Trưng đến đây là kết
thúc".