Đền
Đô - Còn còn gọi là Cổ Pháp Điện hay đền Lý Bát Đế, đền được xây dựng
vào thế kỷ XI (1030) trên khu đất phía Đông Nam Hương Cổ Pháp, Châu Cổ
Pháp (làng Đình Bảng ? Từ Sơn ? Bắc Ninh ngày nay). Khu đất này theo
Thiền sư Lý Vạn Hạnh cho rằng nơi hội tụ của thiên khí, nơi có thế 8 đầu
rồng chầu về).Tương truyền, xưa kia phía trước cửa đền là một khu rừng
Báng, có dòng Tiêu Tương uốn khúc chảy qua.
Đền
được dựng trên nền đất mà xưa khi vua Lý Công Uẩn đăng quang và trở lại
thăm quê hương vào tháng 2 năm Canh Tuất (1010), tại đây nhà vua đã
dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kỳ lão, yết lăng Thái Hậu và đo vài
mươi dặm đất làm "Sơn Lăng cấm địa". Dân làngĐình Bảng đã cho xây dựng
một ngôi nhà lớn làm nơi nghênh tiếp nhà vua.
Khi
vua Lý Công Uẩn băng hà (1028), Lý Thái Tông lên ngôi kế vị vua cha,
ông đã cho sửa sang lại ngôi nhà xưa và chọn làm nơi thờ tự vua cha và
cũng từ đó đền trở thành nơi thờ tự các vị vua nhà Lý sau khi băng hà.
Trải
qua các triều đại Lý, Trần, Lê đền Đô đều được quan tâm tu sửa và mở
rộng, đặc biệt Đền được mở rộng nhất vào thế kỷ XVII (1602) với quy mô
của 21 hạng mục công trình được sắp xếp theo kiểu "Nội công ngoại quốc",
xung quanh có tường thành vây bọc. Kiến trúc của đền có sự kế thừa
phong cách cung đình và phong cách dân gian, tổng thể kiến trúc được kết
hợp hài hoà, chạm khắc tinh xảo, thể hiện một công trình kiến trúc bề
thế vững chắc nhưng không cứng nhắc trong khung cảnh thiên nhiên.
Năm
1952, Đền Đô bị giặc Pháp chiếm và phá huỷ hoàn toàn. Từ năm 1989 trở
lại đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của nhân dân
Đình Bảng và tấm lòng công đức của nhân dân thập phương, Đền Đô đã từng
bước được khôi phục, tìm lại dáng vẻ xưa của đợt trùng tu, mở rộng đền
năm 1602 với các hạng mục công trình như: Nhà Hậu cung (80m2), nhà
chuyền Bồng (80m2), nhà Kiệu (130m2), nhà để Ngựa (130m2), Thuỷ đình,
Phương đình... Căn cứ vào các dấu tích, các nguồn tài liệu và các hạng
mục công trình đã được dựng lại cho phép chúng ta hình dung tổng thể
kiến trúc di tích Đền Đô như sau:
Đền
Đô có diện tích 31.250m2, gồm 21 hạng mục công trình lớn nhỏ. Trung tâm
là Điện thờ, nơi đặt bài vị và tượng của Tám vị vua nhà Lý, xung quanh
có nhà chuyền Bồng, nhà Tiền tế, nhà Phương Đình, nhà Để kiệu, nhà để
ngựa, nhà Thuỷ Đình...Kiến trúc Đền đô được chia làm hai khu vực nội
thành và ngoại thành.
Khu
vực nội thành có diện tích 4.320m2, bố trí theo kiểu "Nội công ngoại
quốc" bao quanh là tường gạch cao 3m, rộng 1m (Hai bên xây gạch, ở giữa
đổ đất) có hai cửa ra vào. Nội thành được chia thành Nội thất và Ngoại
thất.
Nội
thất bao gồm các công trình: Nhà Hậu cung- Nơi đặt ngai và bài vị thờ
Tám vị vua Nhà Lý (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Thần
Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông). Nhà Chuyền Bồng có kiến
trúc chồng diêm tám mái, các đầu đao uốn cong mềm mại ngoài ra còn có
nhà để bia, nhà để ngựa, nhà để kiệu...tất cả đều được xây dựng công
phu, đắp, chạm khắc tinh xảo.
Ngoại
thất gồm nhà vuông, kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái, 8 đầu đao cong
vút mềm mại. Khu vực này có nhàchủ tế, nhà kho, nhà khách, đền vua Bà
(đền thờ Lý Chiêu Hoàng)
Đền
Đô với kiến trúc độc đáo mang tính giá trị nghệ thuật, cảnh trí hữu
tình và mang trong mình một giá trị lịch sử văn hoá đậm nét của Vương
Triều Lý nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung. Đền Đô xứng đáng với
lời ngợi ca
" Đền Đô kiến trúc tuyệt vời
Thăng Long đẹp nhất, đẹp người ngàn năm"
Di
tích lịch sử văn hoáĐền Đô đã được Nhà nước công nhận xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá cấp quốc gia theo Quyết định số 154 ngày 25/01/1991 của
Bộ Văn Hoá thông tin - Thể thao và Du lịch.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét