Truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của con người Việt Nam
có từ nghìn xưa nay trở thành đạo lý và lẽ sống của các dân tộc. Trải
qua hàng nghìn năm Bắc thuộc nhưng ở đời nào, triều đại nào nhân dân ta
đều không hề quên tổ chức lễ hội Đền Hùng. Đây là một lễ hội lớn mang
tính quốc gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Như vậy
phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở
nước ta. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian
Việt Nam
nó mang tính thiêng liêng cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức
long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương
“trở về cội nguồn dân tộc” của hàng chực vạn người từ khắp các nơi trong
nước và kiều bào sống ở nước ngoài.
Khu
di tích đền Hùng là một quần thể kiến trúc đẹp trên núi Nghĩa Lĩnh, tức
núi Hùng, thuộc xã Hi Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú. Khởi thủy
các ngôi đền này đều được làm bằng đá để thờ các vị thần núi và các vị
vua Hùng. Và từ đó đến nay, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, qua các
triều đại, các ngôi đền đều được nhân dân địa phương trông coi, sửa
chữa, tôn tạo hoặc xây dựng để chống lại sự phong hoá của thời gian và
do các cuộc chiến tranh tàn phá. Để có được những ngôi đền với diện mạo
bề thế khang trang như ngày nay là kỳ tích và công sức của bao thế hệ
con cháu duy tu bảo dưỡng. Các di tích này từ lâu đã trở thành một di
sản văn hóa quý giá và là bảo tàng lịch sử của dân tộc ta.
Mỗi
công trình kiến trúc của di tích đền Hùng đều hàm chứa nội dung huyền
thoại hòa lẫn hiện thực, theo dòng lịch sử chảy trôi, làm cho người đi
hội hôm nay như thấy quá khứ và hiện tại quyện vào nhau. Khí thiêng sông
núi như tôn thêm cho ngày hội non sông thêm rạng rỡ. Từ cổng tiền lớn
(Đai môn) dưới chân núi, bức đại tự phía trên mang dòng chữ "Cao sơn
cảnh hàng" (Núi cao đường lớn) vui vẻ chào đón mọi người. Vượt 225 ác xi
măng, khách tới đền Hạ, nơi bà âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm
con trai. Có lẽ đây là sự tích về nguồn gốc của người Việt Nam
được cùng sinh ra một bọc. Vì vậy mà trong ngôn ngữ của ta, dân cung
gian vẫn dùng hai tiếng “đồng bào” (cùng một bộc) cho đến tận ngày nay.
Khi Âu Cơ sinh bọc trăm trứng thì Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi còn
Âu Cơ dẫn 49 con lên ngược, để lại người con trưởng làm vua, xưng là
Hùng Vương, định đô ở Phong Châu. Vượt 168 bậc nữa là tới đền Trung.
Tương truyền nơi đền Trung là chỗ xưa kia các vua Hùng thường họp bàn
việc nước với các quan đại thần trong triều. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi
thoải mái của các vua Hùng cùng các tướng lĩnh sau những cuộc viễn du
săn bắn dài ngày. Nơi đền Trung còn liên quan đến sự tích “bánh chưng,
bánh dày” và cuộc thi cổ do vua Hùng Vương thứ 6 tổ chức nhằm mục đích
tìm người nối ngôi. Lang Liêu là con trai út vì lòng hiếu thảo đã chế ra
được hai loại bánh từ gạo nếp thơm là bánh chưng và bánh dày. Lại vượt
102 bậc nữa là tới đền Thượng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương, các
vua Hùng thường cùng các vị tướng soái hay tổ chức tế trời trên đỉnh núi
Nghĩa Lĩnh, để cầu khấn trời phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu, dân chúng được ấm no hạnh phúc. Cũng tại khu vực đền Thượng, vua
Hùng Vương thứ 6 đã lập bàn thờ Thánh Gióng để tưởng niệm người anh hùng
làng Phù Đổng. Và sự tích Thục Phán dựng hai cột đá thề, khi được vua
Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi cho và hứa tiếp tục sự nghiệp của các vua
Hùng. Cạnh đền có ngôi mộ nhỏ, cổ kính được gọi là mộ tổ. Đây chính là
phần mộ của Hùng Vương thứ 6, dân gian dựa vào lời dặn của nhà vua lúc
băng hà rằng: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn
trông nom bờ cõi cho con cháu muôn đời về sau”. Từ đền Thượng, phóng tầm
mắt về phía trước, khách chiêm ngưỡng 99 ngọn núi lớn nhỏ, hình bầy voi
quỳ hướng về núi Mẹ - Nghĩa Lĩnh - uy nghiêm - riêng một con quay lưng
lại, "ăn ở ra lòng riêng tư”, đã bị mất đầu mãi mãi phải xa lìa bầy đàn,
nguồn cội. Bài học bằng đá cho tới nay vẫn có giá trị nhắc nhở hậu thế
về lòng hiếu nghĩa ở đời.
Trở xuống đền Hạ, chếch về phía Đông Nam
là đền Giếng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương thứ 18, có hai nàng
công chúa tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa, theo vua cha đi kinh lý qua đây
thường hay đến giếng nước trong vắt trốn này để soi gương chải tóc. Cả
hai nàng công chúa đều đẹp người, đẹp nết đã có công dạy dân trồng lúa,
trồng dâu nuôi tằm, phát triển buôn bán trao đổi, đem lại cuộc sống ấm
no hạnh phúc cho muôn dân trăm họ. Nên để tưởng nhớ ơn hai vị công chúa,
nhân dân đã xây dựng ngôi đền Giếng để thờ tự cúng lễ.
Di
tích đền Hùng gắn liền với tục thờ các vị thần linh trọng tín ngưỡng dân
gian đa thần, được dân trong các làng xã địa phương quanh khu đền Hùng
thờ phụng. Chính sự trông nom, thờ cúng dân tộc ta từ bao đời nay đã
phần nào chứng minh cho đạo lý “uống nước nhớ nguồn" của Việt Nam vốn có từ lâu đời và trở thành phong cách độc đáo của dân tộc.
Lễ
hội đền Hùng là dịp giỗ tổ thiêng liêng. Bởi vì trong tâm thức của mỗi
người dân đất Việt đều tự hào là dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu
Tiên. Để rồi cứ mỗi độ xuân về người Việt lại nô nức hành hương về đất
Tổ để tưởng nhớ công lao to lớn trong sự nghiệp mở nước và dựng nước,
khai sáng nền văn minh Lạc Việt và lập nên nước Văn Lag cổ đại.
Tháng Giêng giỗ Thánh Sóc Sơn
Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về.
Hoặc là:
Dù ai đi gần về xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Hội
đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, mà mùng 10 là
chính hội. Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội đền
Hùng gồm có 2 phần: Phần lễ và phần hội.
Phần
tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là
“lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều
màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các
vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các
cụ bô lão của làng xã sở tại quanh
đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hừng.
Sau
phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc thi
kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh
đình mà không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu
của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như
cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ thi năm nay, thì đến kỳ hội sang năm
được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử
hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào
và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua
Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật
thịnh... Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải
chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân
làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao
thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân
chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh
hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với
các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.
Mỗi
một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Chúng đều được sơn son
thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu
cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang,
trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị
của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm.
Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi
sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức
sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão
cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp.
Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục
gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian
truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và điệu múa hát Xoan có từ
thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng
xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt
là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng
dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên
thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.
Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức - phường nổi tiếng - cùng chủ tế đứng trước hương án hát
chúc
bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra
làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ nhang và
dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần
kết thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ở đền
Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát
thờ trước cửa đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do
Nghĩa trình diễn.
Ngoài
sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô
gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy
chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung
quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ
truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném
côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà,... Những trò đánh cờ người và tổ tôm
điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba
trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao
duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền
Hạ hoặc đền Giếng… Không khí ngày hội vừa trang nghiêm phấn khởi, vừa
hào hứng sôi nổi đã làm rung động tâm khảm trái tim bao người đến dự
hội.
Lễ
hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt.
Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành
"Thánh địa linh thiêng” của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc.
Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội đền
Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và
nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam
thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua
Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham
muốn hành hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính
đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.
Hội
đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng
thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến
hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng
đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét