Trên
những thửa ruộng bậc thang thuộc xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn,
cứ vào ngày mồng 8 tết âm lịch hàng năm, lại diễn ra một lễ hội của
đồng bào Tày, Nùng mang tên "Lễ hội Lồng Tồng".
Những
người dân sở tại sẽ dâng lên những mâm cỗ do chính tay mình tự làm, bao
gồm tám mâm, tám chén, tám đôi đũa cùng tám chai rượu. Nắng mưa cũng
mặc, lễ hội vẫn cứ diễn ra, mâm cỗ vẫn cứ dâng lên vì trên mỗi mâm đã có
những chiếc ô che sẵn. Chủ hội sẽ đích thân làm lễ cúng Thần nông-vị
thần cai quản ruộng đồng, làng bản để cầu ấm no, sức khỏe và hạnh phúc
cho mọi người dân trong bản.
Xã Lam Sơn, nơi diễn ra lễ phục dựng hội Lồng Tồng còn vui hơn cả Tết bởi sự nhộn nhịp của đêm trước lễ hội. 10 thôn, bản náo nức chuẩn bị cỗ. Đã ít nhiều biết đến ẩm thực của các dân tộc miền núi phía Bắc qua sách báo và những ngày hội nhưng vẫn không khỏi ngỡ ngàng bởi sự khéo léo và tinh tế trong chế biến món ăn và nâng sự bình dị của từng món ăn lên hàng nghệ thuật khi gắn vào đó những ý niệm, những so sánh trong sự tương quan giữa âm và dương, trời và đất của người dân Na Rì. Lễ rước cỗ mở đầu cho Lễ hội Lồng Tồng diễn ra tại khu đất trống ở bản Pioo xã Lam Sơn khiến người ta nghĩ đến lễ dâng bánh chưng bánh dày của Lang Liêu thủa trước. Trang trọng và đầy ắp hương xuân, mỗi mâm cỗ là một tác phẩm nghệ thuật của nấu nướng và sắp đặt. Chỉ với một loại nếp nương, người dân Na Rì đã chế biến được 8-10 món bánh trên mâm cỗ, từ bánh dày, bánh chưng, xôi mật, xôi ngũ sắc ... đến các loại bánh phỏng nhào mật đủ cả vuông, tròn, sao năm cánh. v.v. Rồi chuối, dứa, và các loại hoa rừng, mùa nào thức đấy, mâm cỗ đầu xuân của ngày hội xuống đồng cũng là mâm cỗ đủ cả sản vật của 12 tháng với ước mong về một sự no đủ.
Xã Lam Sơn, nơi diễn ra lễ phục dựng hội Lồng Tồng còn vui hơn cả Tết bởi sự nhộn nhịp của đêm trước lễ hội. 10 thôn, bản náo nức chuẩn bị cỗ. Đã ít nhiều biết đến ẩm thực của các dân tộc miền núi phía Bắc qua sách báo và những ngày hội nhưng vẫn không khỏi ngỡ ngàng bởi sự khéo léo và tinh tế trong chế biến món ăn và nâng sự bình dị của từng món ăn lên hàng nghệ thuật khi gắn vào đó những ý niệm, những so sánh trong sự tương quan giữa âm và dương, trời và đất của người dân Na Rì. Lễ rước cỗ mở đầu cho Lễ hội Lồng Tồng diễn ra tại khu đất trống ở bản Pioo xã Lam Sơn khiến người ta nghĩ đến lễ dâng bánh chưng bánh dày của Lang Liêu thủa trước. Trang trọng và đầy ắp hương xuân, mỗi mâm cỗ là một tác phẩm nghệ thuật của nấu nướng và sắp đặt. Chỉ với một loại nếp nương, người dân Na Rì đã chế biến được 8-10 món bánh trên mâm cỗ, từ bánh dày, bánh chưng, xôi mật, xôi ngũ sắc ... đến các loại bánh phỏng nhào mật đủ cả vuông, tròn, sao năm cánh. v.v. Rồi chuối, dứa, và các loại hoa rừng, mùa nào thức đấy, mâm cỗ đầu xuân của ngày hội xuống đồng cũng là mâm cỗ đủ cả sản vật của 12 tháng với ước mong về một sự no đủ.
Giờ
khai hội, cây cột tung còn được trang trí bằng những tua rua vải sặc sỡ
với những quả còn được chuẩn bị sẵn sẽ trở thành trung tâm của lễ hội
sau khi ông chủ hội tung quả còn đầu tiên lên. Nam
nữ xúm lại bên ném, bên bắt còn. Đó cũng là một kiểu trao gửi tình cảm
của thanh niên vùng núi hiếm hoi còn sót lại đến ngày nay. Sau đó là
chương trình hát sli lượn giao duyên, múa sư tử, biếu diễn đao thuật,
hội cờ tướng (bàn cờ được ghép bằng những mảnh cây vầu), đám kéo co (đội
nào thắng thì coi như năm đó được mùa)... khiến lễ hội trở thành một
dịp cho người dân bản trổ tài góp vui...
Gắn
bó với lao động sản xuất, Tết đến cũng là ngày các dụng cụ lao động
được hưởng niềm vui đón Tết như con người. Người ta dán giấy đỏ, giấy
hồng lên các dụng cụ lao động, như thể khoác cho nó một tấm áo mới, hay
truyền sang nó một nụ cười xuân. Bốn con trâu được chọn xuống đồng trong
ngày khai hội cũng được tết nơ hồng, nơ đỏ vào đuôi, vào sừng, những
chiếc cày, chiếc bừa gắn tua rua, cắm cờ đỏ khiến mảnh ruộng cạnh khu lễ
hội cũng rực lên một sắc mới. Ngay sau những đường cày khai hội, những
quả còn với những chiếc đuôi dài như những lọn tóc con gái vùng cao, đủ
màu sắc vun vút tung lên cao. Cột còn khá cao, vòng tròn khá nhỏ nhưng
quả còn của một chàng trai Lam Sơn đã tung trúng tâm tròn, khép lại hội
tung còn mở màn cho những câu sli, lượn giao duyên tình tứ. Mùa hoa mận
trắng xóa, tiếng róc rách của suối nước, sự ồn ã của gió rừng ... tất cả
như tụ hội về Lam Sơn cùng những câu sli, lượn. Người xem không muốn
dứt khỏi những Lượn nàng ới, nhưng cũng không bỏ lỡ cơ hội để hòa vào sự
nhộn nhịp , náo nức của những trò chơi dân gian như: kéo cóc, đẩy gậy,
đánh yến, đánh sảng.v.v.
Một
ngày náo nức, một ngày trái tim người dân Na Rì đập rộn rã bởi những
ánh mắt trìu mến trao nhau, Lễ hội Lồng Tổng ở Na Rì có sự trang nghiêm
của phần lễ, có cái náo nức của hội hè nhưng tuyệt nhiên không yếu tố
thương mại và mê tín dị đoan. Đã bị mai một và mới được tổ chức lại từ
năm 1999, Lễ hội Lồng Tổng ở Na Rì năm nay nằm trong kế hoạch phục dựng
các lễ hội truyền thống cổ mà Bộ VH-TT chỉ đạo Vụ Văn hóa dân tộc miền
núi phục dựng sau lễ hội Tâm nghết ( lễ hội Dâng trâu mừng được mùa và
cầu cho mùa mới bội thu) của đồng bào Mnông ở Đaklak. Đồng thời, thông
qua việc phục dựng, giữ lại cái hồn của lễ hội, những yếu tố mang bản
sắc riêng, lược bỏ những chi tiết rườm rà, lạc hậu, bổ sung những yếu tố
mới phù hợp để xây dựng mô hình mẫu Lễ hội đầu xuân cầu mùa của người
Tày, Nùng. Từ hình mẫu, người Tày, Nùng ở các địa phương khác sẽ thổi
vào hình mẫu những sắc màu của địa phương mình và "chuyển dịch" hình mẫu
đó về địa bàn nơi mình sinh sống theo phương thức nhân rộng.
Theo
ông Vi Hồng Nhân, Vụ trưởng Vụ VHDTMN, để Lễ hội Lồng Tồng Na Rì ấn
tượng hơn nữa và thực sự là một hình mẫu, công tác tổ chức cần phải
chuẩn bị kỹ hơn, bài bản hơn. Ví dụ, cột còn phải liền cây, không được
chắp vá, và không quá cao để phụ nữ có thể tham gia. Trước khi tung còn
tự do, nên để cho mỗi thôn tham gia tung từ 10-20 quả còn. Kịch bản lễ
hội phải lưu ý tính kết nối hạn chế tối đa "giờ chết". Muốn vậy cần tăng
cường đội múa lân biểu diễn trong những đoạn chuyển giao giữa các phần
lễ hội. Người đọc văn lễ phải mặc trang phục dân tộc theo đúng nghi
thức, phải quay mặt vào các mâm cỗ để đọc văn lễ chứ không phải quay
lưng về cỗ, quay mặt về đám đông. Bổ sung thêm các trò chơi dân gian ,
cố gắng khai thác các nghệ nhân hát trong phần thi hát đối đáp giao
duyên. Bởi theo ông, tại lễ hội lần này "đã phát hiện một vài cụ già có
cả kho bài hát ... trong túi".
Na
Rì đang đổi mới, Na Rì đang vươn mình để trở thành thị xã, thành phố
trong nay mai. Nếu như con đường từ Bắc Kạn vào Na Rì vài năm trước phải
đi mất cả ngày đường mới tới nơi thì bây giờ chỉ mất khoảng 2 giờ đồng
hồ ô tô chạy. Tương lai không xa, Na Rì sẽ là một trong những tuyến
đường thông thương, giao lưu thương mại và văn hoá với nước bạn láng
giềng. Na Rì cũng sẽ có một khu du lịch sinh thái hứa hẹn sự hấp dẫn với
động Nàng Tiên và thảm thực vật đa dạng. Kinh tế phát triển thì văn hóa
cũng phải được quan tâm phát triển tương xứng với kế hoạch tăng trưởng
kinh tế nơi đây và việc phục dựng , xây dựng hình mẫu Lễ hội Lồng Tồng
được xem là bước khởi đầu của chặng đường phát triển mới văn hóa ở Na
Rì.
Việc gìn giữ, bảo tồn không gian văn hóa của lễ hội Lồng Tồng không chỉ là nguyện vọng của người dân Lam Sơn, Na Rì - quê hương của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, mà cũng là mong muốn của những người làm công tác văn hóa. Với người dân miền núi như ở Bắc Cạn, việc có một lễ hội thực sự vui, bổ ích và lành mạnh như lễ hội Lồng Tồng rất hiếm hoi. Chính vì lẽ đó, lễ hội Lồng Tồng đầu xuân năm 2003 đã không còn là "chuyện riêng" của người dân địa phương. Hội Văn học nghê thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam đã coi đây là một cơ hội quý để thâm nhập một vùng văn hóa còn nhiều nét sơ khai và bí ẩn, dành nhiều những quan tâm đặc biệt cho lễ hội ngay từ khi tiếng trống khai hội chưa kịp gióng lên...
Việc gìn giữ, bảo tồn không gian văn hóa của lễ hội Lồng Tồng không chỉ là nguyện vọng của người dân Lam Sơn, Na Rì - quê hương của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, mà cũng là mong muốn của những người làm công tác văn hóa. Với người dân miền núi như ở Bắc Cạn, việc có một lễ hội thực sự vui, bổ ích và lành mạnh như lễ hội Lồng Tồng rất hiếm hoi. Chính vì lẽ đó, lễ hội Lồng Tồng đầu xuân năm 2003 đã không còn là "chuyện riêng" của người dân địa phương. Hội Văn học nghê thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam đã coi đây là một cơ hội quý để thâm nhập một vùng văn hóa còn nhiều nét sơ khai và bí ẩn, dành nhiều những quan tâm đặc biệt cho lễ hội ngay từ khi tiếng trống khai hội chưa kịp gióng lên...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét