Là một nước nhỏ về cả dân số lẫn diện
tích và ở sát cạnh Trung Quốc, Việt Nam không thoát khỏi phụ thuộc vào
nước láng giềng khổng lồ tham lam và xảo quyệt. Việt Nam phụ thuộc Trung
Quốc quá nhiều về chính trị và cả về kinh tế. Bài phân tách này trước
hết sẽ trình bầy về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc về phương diện
kinh tế. Tiếp theo sẽ là phần nhận xét lợi hại của quan hệ này. Sau cùng
là một vài đề nghị để kinh tế Việt Nam giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.
Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào cuối năm
1991. Kể từ đó buôn bán giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng. Trị giá
tổng số hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đối với Trung Quốc
tăng từ 692 triệu Mỹ kim vào năm 1995 đến 50.2 tỉ Mỹ kim vào năm 2013.
Theo một dự đoán, trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước có thể lên tới
60 tỉ Mỹ kim vào 2015. (1)
Trong vài năm đầu, Việt Nam
xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc nhiều hơn nhập cảng từ quốc gia này ở
mức độ khiêm nhường với trung bình hàng năm vào khoảng 41 triệu Mỹ kim.
Nhưng kề từ 2001 đến nay, cán cân thương mại (trade balance) ngày càng
bất lợi cho Việt Nam. Nhập siêu (trade deficit) tăng từ 189 triệu Mỹ kim
lên đến 23.7 tỉ Mỹ kim. Đấy là chưa kể số hàng nhập lậu đáng kể qua
biên giới ở những nơi như Mống Cái và Lạng Sơn.
Việt Nam nhập
khẩu từ Trung Quốc nhiều nguyên phụ liệu, thành phẩm hóa chất, và máy
móc dùng cho việc sản xuất. Riêng về ngành dệt may, Việt Nam phải nhập
khẩu khoảng 50-60% nguyên phụ liệu từ Trung Quốc như da làm giầy dép,
vải và lụa để làm quần áo. Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
bao gồm khoáng sản thô như than, quặng sắt. dầu thô, nông lâm sản, thủy
sản và đồ thủ công. Khoảng 80% cao su, 40% gạo, 70% thanh long xuất khẩu
của Việt Nam bán cho Trung Quốc.
Kinh tế Việt Nam lệ thuộc đáng kể vào Trung Quốc
Bức tranh mô tả cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trên đây
cho thấy sự phụ thuộc của Việt Nam vào nước láng giềng phương bắc quả
thật là rất đáng e ngại. Nhưng phân tách sự kiện này một cách quy mô
hơn, chúng ta thấy tình trạng này chưa đến nỗi vô vọng.
Thật
vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam so với trị giá tổng số thương vụ
vào năm 2013 của Việt Nam với thế giới 264.3 tỉ Mỹ kim, phần của Trung
Quốc tuy dẫn đầu nhưng chỉ chiếm khoảng 19%, so với con số của Hoa Kỳ là
11%, Hàn Quốc 10.3%, Nhật 9.6%, Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN)
15.1%, Liên Hiệp Âu Châu (EU) 12.7%, và các nước còn lại 32.6%.
Một cách khách quan, những con số trên đây cho thấy phần đóng góp của
Trung Quốc trong lãnh vực ngoại thương tương đối đáng kể nhưng không có
tính cách ngự trị. Sở dĩ Việt Nam buôn bán nhiều với Trung Quốc một phần
vì hai nước sát vách nhau và hàng của Trung Quốc mặc dù chất lượng thấp
nhưng rẻ và hợp với túi tiền của đa số người Việt Nam.
Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tích lũy tính đến 31-12-2012 là 210.5 tỉ Mỹ kim. Phần của Nhật đứng đầu với 28.7 tỉ Mỹ kim (13.6%), tiếp theo là Đài Loan (12.9%), Singapore (11.8%), và Hàn Quốc (11.8%). Trong khi đó đầu tư của Hoa Kỳ và Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khiêm nhường lần lượt là 5% và 2.2%.
Số dự án đầu tư của Trung Quốc tính đến cuối
năm 2012 là 893, chiếm 6.1% tổng số dự án đầu tư nước ngoài. Trung bình
mỗi dự án trị giá 5.3 triệu Mỹ kim. Trong khi đó, Hàn Quốc có 3,197 dự
án ở Việt Nam, chiếm 22% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung
bình mỗi dự án trị giá 7.8 triệu Mỹ kim và Đài Loan với 2,234 dự án,
chiếm 15.4% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án
trị giá 12.1 triệu Mỹ kim. Tiếp theo là Nhật với 1,849 dự án và
Singapore với 1,119 dự án. Như vậy trong lãnh vực đầu tư, vai trò của
Trung Quốc khá khiêm nhường.
Tiếp theo, chúng ta phân tách tình
trạng Việt Nam nợ nước ngoài trong đó có Trung Quốc. Trước hết là số nợ
trong Chương Trình Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức (Official Development
Assistance gọi tắt là ODA). Đây là một chương trình tài trợ quan trọng
vì ODA có những ưu điểm là cho vay với lãi suất thấp (dưới 2%), dài hạn
(25-40 năm), và một phần trong nguồn vốn là tiền viện trợ không phải
hoàn trả.
Theo thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh
Tế (Organization for Economic Co-operation and Development viết tắt là
OECD), gồm 34 quốc gia hội viên có nền kinh tế tiên tiến nhất, trong
thời gian 2000-2012 ODA đã giải ngân cho Việt Nam 31.2 tỉ Mỹ kim từ
nhiều nước phát triển trong đó có Nhật (đứng đầu với 10 tỉ Mỹ kim), Hàn
Quốc, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ.
Các tổ chức tài trợ đa phương như Ngân Hàng Thế Giới qua chương trình
Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế (International Development Association -
IDA) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian Development Bank viết tắt là
ADB) qua Quỹ Đặc Biệt (Special Funds) đã cho Việt Nam vay 11.3 tỉ Mỹ kim
dưới hình thức ODA cùng trong thời gian kể trên. Trong khi đó, OECD
không báo cáo món nợ ODA nào từ Trung Quốc.
Về những khoản nợ
nước ngoài khác, theo báo cáo gần đây của Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng
Tài Chánh với Quốc Hội Việt Nam, “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để
thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường
chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0.33% quy mô giá trị của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào
hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là
những nhà đầu tư dài hạn.” (2)
Rất tiếc rằng Ông Dũng từ chối
không cho biết những con số cụ thể về các khoản nợ Trung Quốc vì tính
chất nhậy cảm của vấn đề này.
Tham gia vào những hiệp ước thương mại quốc tế
Một trong những cách hiệu quả nhất để giảm phụ thuộc kinh tế vào Trung
Quốc là tham gia vào những hiệp định thương mại quốc tế. Việt Nam đã ký
kết hai hiệp định thương mại quan trọng trong quá khứ là Hiệp Định Song
Phương với Hoa Kỳ vào năm 2001 và sau đó là gia nhập vào Tổ Chức Thương
Mại Thế Giới (World Trade Organization viết tắt là WTO) vào năm 2007.
Việt Nam đang thương thuyết sáu hiệp ước thương mại tự do (free trade
agreement - FTA) khác là Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Partnership - TPP) với 11 quốc gia khác không có Trung
Quốc, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, FTA với Hàn Quốc, FTA với Na Uy - Thụy
Sỹ - Iceland - Liechtenstein, FTA với Liên minh Hải quan Nga - Belarus -
Kazakhstan, và Hiệp định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện giữa các nước ASEAN.
TPP, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, và FTA với Hàn Quốc trong những
hiệp định vừa kể trên là ba hiệp ước sẽ có ảnh hưởng tích cực và mạnh
mẽ nhất đến kinh tế Việt Nam và sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào Trung
Quốc.
Mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản
hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội
tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800
triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa (GDP) là khoảng
28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Ngoài ra, những nước TPP sẽ là
nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam và là thị trường tiêu
thụ sản phẩm của Việt Nam mà không bị Trung Quốc cạnh tranh. Việc gia
nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim
tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri,
Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”(3)
Theo Ông
Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam,
tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam có thể tăng trên 15%, tiền lương thực
tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực
tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu
có thể tăng lên gần 35% sau khi Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam ký kết
FTA.
Hàn Quốc đầu tư rất nhiều vào lãnh vực sản xuất điện tử tại
Việt Nam với những dự án quy mô lớn như của Samsung hay LG, nhưng các
công ty này vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc. Thí dụ như
Samsung Vietnam xuất khẩu điện thoại di động thông minh Galaxy trị giá
23.3 tỉ Mỹ kim, nhưng đã phải nhập khẩu vi mạch và linh kiện từ Samsung
China trị giá 21.3 tỉ Mỹ kim. Khi FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc được ký
kết, Việt Nam sẽ không phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc nữa vì các
công ty Hàn Quốc sẽ đến xây dựng nhà máy tại Việt Nam để được hưởng quy
chế thuế thấp do hiệp định thương mại này quy định. Điều đó sẽ giúp
Việt Nam giảm lệ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. (4)
Tương tự như trong lãnh vực điện tử, một khi Việt Nam gia nhập TPP, các
nhà máy làm vải, lụa, khuy áo và chế tạo da sẽ được xây cất tại Việt Nam
để được hưởng thuế ưu đãi đối với hàng dệt may và giầy dép. Như vậy số
lượng nguyên liệu nhập cảng từ Trung Quốc sẽ tự động giảm xuống.
Nói tóm lại, tham gia vào những thương ước đa phương vừa kể trên là một
cách giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp
nguyên liệu, vốn, kỹ thuật và ngay cả nhân lực. Do đó, kinh tế Việt Nam
sẽ bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Chấm dứt những mãnh lới buôn bán bất chính của thương gia Trung Quốc
Ngoài việc tiến dần đến độc quyền nguy hiểm về xuất nhập khẩu trong một
số lãnh vực, thương gia Trung Quốc còn có những thủ đoạn buôn bán bất
chính gây thiệt hại cho những nhà sản xuất Việt Nam. Một số bài tường
thuật trên báo mạng cho thấy rằng thương gia Trung Quốc đi đến từng
ruộng vườn để thu mua các cây con, rễ tiêu, lá điều và ngọn cây làm hư
hại mùa màng hay thu mua đỉa mang tính cách phá hoại nông nghiệp. Thương
gia Trung Quốc còn nâng giá giả tạo một số nông sản như khoai lang và
dưa hấu làm cho nông dân Việt Nam ham lợi tăng gia sản xuất. Vài mùa
sau, khi thương gia Trung Quốc không trở lại thu mua nữa, các loại nông
sản trở thành ế ẩm khiến cho nông dân Việt Nam buộc phải hạ giá. (5)
Trước 1975 cũng đã xẩy ra những vụ tương tự tại miền Nam Việt Nam như vụ
thu mua chim cút, khiến nhiều công chức quân nhân đã nghèo lại còn
nghèo thêm.
Trung Quốc còn gây khó khăn cho các nông sản xuất
khẩu của Việt Nam bằng cách thường xuyên trì hoãn các xe chuyên chở ở
biên giới. Chủ nhân của hàng ngàn xe dưa hấu, vải, và rau tươi của Việt
Nam mắc kẹt tại đây, nhiều khi buộc phải hạ giá để giảm bớt một phần nào
lỗ lã. (6)
Việt Nam cần phải chấm dứt những mánh lời buôn bán
bất chính này của Trung Quốc để bảo vệ nông dân và nông phẩm của Việt
Nam, chống lại sự lũng đoạn thị trường Việt Nam của Trung Quốc. Một
trong những biện pháp hữu hiệu nhất là việc giáo dục và phổ biến tin tức
về giá cả và thị trường đến nông dân. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn có trách nhiệm về vấn đề này. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm giải
tỏa những khó khăn ở biên giới. Nếu không được thì phải nhờ Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới (WTO) can thiệp.
Trung Quốc trúng thầu nhiều dự án tại Việt Nam
Vào cuối năm 2009, các công ty kỹ thuật Trung Quốc đảm nhận nhiều dự án
với trị giá tổng cộng lên đến 15.4 tỉ Mỹ kim. Các nhà thầu Trung Quốc
thực hiện 90% dự án xây cất những nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam, từ
đầu tới cuối, không sử dụng bất cứ thứ gì của Việt Nam. Tương tự như
vậy, trong tổng số 24 nhà máy xi măng ở Việt Nam, 23 nhà máy do Trung
Quốc xây cất. Đây là một ấn đề gây nhiều bất mãn trong quần chúng và các
chuyên gia tại Việt Nam hiện nay. Theo Cô Lê Hồng Hiệp, Giảng Sư tại
Đại Học Quốc Gia Việt Nam tại Hà Nội, có hai lý do khiến cho các công ty
Trung Quốc thành công trong ngành đấu thầu. Thứ nhất là khi cho vay vốn
ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà
thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển. Tuy
nhiên cần phải kể đến yếu tố thứ ba là giá đấu thầu của những công ty
Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác.
Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà
thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc. Đối
với những dự án không dùng vốn Trung Quốc, nhà thầu Trung Quốc vẫn có
thể thắng được nhờ cho giá tương đối khá thấp theo luật đấu thầu của
Việt Nam, bất kể tiêu chuẩn kỹ thuật. Vấn đề là sau khi trúng thầu,
những công ty Trung Quốc thường thuyết phục những cơ quan sở hữu dự án
thay đổi các điều khoản của hồ sơ thầu để giảm chi phí hoặc có khi phe
lờ những điều kiện này. Ngoài ra, những công ty Trung Quốc ưa thích dùng
công nhân Trung Quốc hơn với lý do ngôn ngữ và kỹ năng. Một số phúc
trình cho thấy rằng nhiều nhà thầu Trung Quốc hoàn tất dự án không đúng
tiêu chuẩn đã ấn định như chậm trễ, chất lượng kém. (7) Các nhà thầu
Trung Quốc còn mang những máy móc thiết bị công nghệ cũ để dùng cho
những dự án họ trúng thầu. (8)
Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu
Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung
Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các
công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn
dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát
triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được
giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”
Nhiều thắc mắc tương tư như
trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường
xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một
vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu
thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan
quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn
tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu
Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó
chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.
Hiện nay Bộ
Kế Hoạch và Đầu Tư đang duyệt xét lại luật đấu thầu để cho phép những
chủ dự án có thể loại bỏ những nhà thầu thiếu khả năng cho dù họ có cho
giá thầu thấp. Những công ty trúng thầu sẽ buộc phải ưu tiên sử dụng
nhân công Việt Nam cũng như vật liệu, trang bị và dịch vụ có sẵn ở địa
phương. Đây cũng chính là những mục tiêu căn bản của kế hoạch đầu tư
trực tiếp nước ngoài, kể cả dùng những dự án thầu đề huấn luyện nhân
công trong nước.
Việt Nam là một quốc gia hội viên của Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế. Do đó Việt Nam phải tuân theo luật WTO. Tuy nhiên
Việt Nam vẫn có thể đặt ra những tiêu chuẩn kỹ thuật và hành chánh để
bảo đảm dự án phải được thực hiện theo ý muốn, miễn là những tiêu chuẩn
này áp dụng đồng đều cho tất cả những nhà thầu, không phân biệt quốc
tịch.
Kết luận
Trong nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam không
thể độc lập hoàn toàn với Trung Quốc và ngược lại, nhưng kinh tế Việt
Nam cũng không thể phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Để giảm
lệ thuộc vào Trung Quốc, trước hết, Việt Nam cần phải cố gắng tự sản
xuất những hàng hóa tiêu thụ hàng ngày mà mình có thể làm lấy được và
phải làm tốt hơn hàng của Trung Quốc và đặc biệt chú trọng đến sự an
toàn.
Người tiêu thụ cần phải bỏ thói quen mua hàng rẻ nhưng
chất lượng thấp của Trung Quốc. Mặt khác phải hỗ trợ hàng Việt Nam nhất
là trong hoàn cảnh Trung Quốc đang xâm lăng Việt Nam. Mua hàng Việt Nam
là góp phần vào việc bảo vệ đất nước.
Việt Nam cần phải cải tổ
chế độ đầu thầu và ra luật nghiêm trị những kẻ ăn hối lộ và bao che các
nhà thầu. Chú trọng đến chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thay vì giá
thầu. Khuyến khích nhiều nhà thầu khác nhau thực hiện các dự án thay vì
để cho Trung Quốc gần như độc quyền trong một vài lãnh vực trọng yếu
(năng lượng và xây cất hạ tầng) như hiện nay.
Việt Nam cần hủy
bỏ những xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, đặc biệt công nghệ cao, để tập
trung phát triển công nghiệp nhẹ, giúp sản xuất những sản phẩm tiêu thụ
cho người Việt và những nguyên liệu cần thiết cho những công nghiệp
chính của Việt Nam như may mặc và giầy ép. Kế hoạch phát triển trồng
1,000 ha bông tại tỉnh Ninh Thuận là một việc cần sớm thực hiện.
Việt Nam từng xuất khẩu ồ ạt những số lượng than rất lớn sang Trung
Quốc, kể cả một lượng 1 triệu tấn than xuất khẩu lậu, với giá rẻ so với
giá trị trường quốc tế, mặc dù biết rằng Việt Nam cũng rất cần nguồn
năng lượng có sẵn này để phát triển. Người ta nghi ngờ có sự chia chác
trong vụ mua bán than này làm cho Việt Nam thất thu khoảng 1 tỷ Mỹ kim.
(9) Tuy nhiên Việt Nam lại nhập cảng điện từ Trung Quốc với giá cao gấp
ba lần giá điện ở Việt Nam. Như đã tiên liệu, mới đây Việt Nam thiếu
than đã phải nhập cảng than từ Nam Dương, cùng một loại than mà Việt Nam
xuất cảng sang Trung Quốc. Việt Nam cũng xuất cảng cao su qua Trung
Quốc, nhưng lại nhập cảng lốp xe từ Trung Quốc. Không có một chánh sách
kinh tế nào phi lý hơn thế. Vì vậy Việt Nam cần phải cải tổ chính sách
xuất nhập khẩu, nhất là với Trung Quốc.
Sau hết và quan trọng hơn cả là tham gia vào những thương ước đa phương đặc biệt là Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương.
Chúng ta không biết CSVN có cam kết gì với Trung Quốc ở hậu trường hay
không. Nhưng chúng ta thấy rõ rằng người đồng chí hàng xóm khổng lồ
không hề dí súng vào đầu người anh em Việt Nam để bắt buộc Việt Nam phải
buôn bán với họ. Phần lớn những giải pháp khả thi giúp kinh tế Việt Nam
giảm lệ thuộc vào Trung Quốc hoàn toàn nằm trong tay chánh quyền Hà Nội
và người dân Việt Nam.
Washington-DC, 04-07-2014
Nguyễn Quốc Khải
0 nhận xét:
Đăng nhận xét