Sự thay đổi Ban lãnh đạo trong điện Kremlin sau cái chết của
I.V.Stalin (5-3-1953) - một trong những nhân vật nổi tiếng nhất thế kỷ
XX, đã khiến các nhà lãnh đạo phương Tây nghĩ đến khả năng giảm bớt căng
thẳng quốc tế. Hy vọng đó được thể hiện trong bài phát biểu nổi tiếng “The chance for Peace”
của Tổng thống Eisenhower (16-4-1953) và phát biểu tại Hạ viện nước Anh
của Thủ tướng Winston Churchill (11-5-1953). Kêu gọi tổ chức đàm phán
cấp cao nhằm “hạ nhiệt” cuộc Chiến tranh Lạnh đang rất “nóng” của Nguyên
thủ một số nước phương Tây gặp sự phản hồi tích cực của Liên Xô. Hội
nghị Genève được “thai nghén” trong điều kiện đó.
1- Đường đến Genève
Trong xu hướng hòa hoãn giữa các nước lớn, ngày 28-9-1953, Liên Xô
đề nghị các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế, xem xét, đề
xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải
quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Ngày
25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp,
Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève, bàn
giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Thất bại liên tiếp trên chiến trường, lúng túng, bị động trong chiến
lược, chiến thuật, ngân khố thâm hụt trầm trọng…, Pháp mong muốn nhanh
chóng tìm ra một giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhìn
thấy ở Hội nghị Genève cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương thông
qua thương lượng, dù đang ở vào tình thế bất lợi về quân sự, song Pháp
muốn đàm phán trên tư thế áp đảo - cuộc thương lượng như De Gaulle minh
định: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”[1]. Nước
Pháp đặt cược vào canh bạc lớn - giải quyết cuộc chiến tranh “một cách
thể diện” bởi H.Navarre và “con nhím thép” Điện Biên Phủ - “Verdun” của
Đông Nam Á. Pháp quyết tâm bảo vệ Điện Biên Phủ đến cùng, quan niệm “nếu
giữ được Điện Biên Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc
Pháp…”[2].
Đón nhận tin tức về Hội nghị Genève, ngày 2 -11- 1953, Hồ Chí Minh
thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đưa ra thông điệp: “Nếu
Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm
nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải
quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”[3]. Ngày 13-13-1954, Hội
đồng chính phủ VNDCCH nhóm họp, bày tỏ quan điểm tán thành Hội nghị
Genève, thảo luận về lập trường, phương châm đấu tranh ngoại giao và cử
Đoàn đại biểu tham gia Hội nghị (do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trên quan
điểm giải quyết chiến tranh: “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là
Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam”
[4], VNDCCH chủ trương vừa đánh, vừa đàm. Chủ trương “đánh - đàm” được
khái quát ngắn gọn: Đánh cho đến khi có ưu thế hơn đối phương và đợi đến
lúc ở Genève đạt được được thoả thuận chính trị phù hợp rồi mới đình
chiến, thậm chí chỉ đồng ý đình chiến về nguyên tắc, còn nội dung đình
chiến cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của tình hình.
Nhằm tạo thế cho cuộc đàm phán sắp đến, trung tuần tháng 12-1953,
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là đòn “rất quan trọng không những về
quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với
quốc tế”[5].
Nhận xét về thời điểm phát động và mục tiêu cuộc “so găng lịch sử”
Điện Biên Phủ, sĩ quan tình báo Mỹ L. A. Patti viết: “Cái pháo đài mới
được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn
giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai mạc”[6].
Với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng con người và vật chất
được dốc vào thung lũng lòng chảo vùng Tây Bắc[7], Điện Biên Phủ trở
thành nơi đọ sức, cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên đều gửi
gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết định trong ván cờ
cuối cùng. Mục tiêu trên bàn đàm phán của Hội nghị Genève) đã biến Điện
Biên Phủ thành đấu trường khốc liệt, khi kết cục của nó quyết định
“miếng bánh” của các bên liên quan, tất nhiên, nếu việc chia bánh được
đặt trên căn cứ của luật chơi “sòng phẳng”, công bằng.
Liên quan tới Quốc gia Việt Nam (QGVN), tháng ba năm
1954, Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc mở cuộc điều đình với Pháp về chủ
quyền của Việt Nam, đề nghị Pháp ký hai Hiệp ước. Hiệp ước thứ nhất về
công nhận độc lập trọn vẹn của QGVN, QGVN sẽ tách khỏi Liên hiệp Pháp
trở thành một nước độc lập. Hiệp ước thứ hai về quan hệ giữa Việt Nam và
Pháp[8].
Những nước còn lại tham dự Hội nghị (Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh)
tuy không là “đương sự” trực tiếp, song lại có quyền quyết định quan
trọng, có những dự định, kế hoạch tiếp cận và giải quyết những vấn đề
trọng yếu của Hội nghị đáp ứng/thỏa mãn quyền lợi của mình lớn hơn mục
tiêu giải quyết vấn đề Triều Tiên, cũng như vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương. Bức tranh toàn cảnh mối liên hệ giữa các nước lớn có mặt ở
Hội nghị mang tính “thắt” - “mở”, bị chi phối, quy định bởi những toan
tính và kế hoạch riêng/chung hết sức phức tạp, bộc lộ ngày một rõ hơn
trong tiến trình Hội nghị.
2- Nỗi thất vọng mang tên Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Giai đoạn một
của Hội nghị chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên, song không khí Genève
ngày một nóng dần lên bởi những diễn biến chiến sự ở Đông Dương. Đặc
biệt, Hội nghị khai mạc trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam
kết thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ, khiến
Genève dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa chiến trường.
Ngày 4-5-1954, Đoàn VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu có mặt
ở Genève[9]. Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, “vấn đề Đông Dương
tại Hội nghị nhộn nhịp hẳn lên”[10]. Phạm Văn Đồng “đến Genève với nét
mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về
làm cho ông tràn đầy hy vọng”[11].
Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30 phút ngày
7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ điểm, Tướng Đờ
Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống - cuộc chiến tranh Đông Dương rơi
vào “điểm trắng” của lịch sử. Cả nước Pháp chết lặng, bàng hoàng.
Wilfred Burchett bình luận: “Người đồng chí thân thiết của ông Phạm Văn
Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một vũ khí hiệu nghiệm
nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương lượng nào cũng dám nghĩ đến khi
bắt đầu một hội nghị như vậy”[12].
Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ sâu sắc
thêm, Pháp không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng rút lui khỏi
Đông Dương. Nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị
Genève là đạt được ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng
trên thế mạnh của Pháp tan vỡ. Trong phiên họp đầu tiên, “Trưởng đoàn
đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị hạn chế sự hiện diện của quân
đội Pháp ở phía nam vĩ tuyến 17”[13], dù trước đó khăng khăng yêu cầu
vĩ tuyến 18.
Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi một ngày trước khi Hội nghị Genève
về Đông Dương khai mạc – “nhờ thời điểm tuyệt diệu của ông Giáp, kế
hoạch Đa-lét nhằm quốc tế hoá cuộc chiến tranh đã thất bại”[14]. Điều đó
càng củng cố thêm lập trường đàm phán “thực sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do”[15]; “hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc”[16]
của VNDCCH. Những yếu tố hội tụ cho phép VNDCCH hy vọng về một kết quả
công bằng tại Genève thỏa mãn lập trường đàm phán đã xác định.
Về phía Quốc gia Việt Nam, ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp
Joseph Laniel và Thủ tướng QGVN Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký Hiệp ước công
nhận QGVN độc lập hoàn toàn[17]. Ít lâu sau, Hiệp ước liên hiệp
Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp cũng được
ký kết[18]. Trở thành Thủ tướng, Mandès France hứa tôn trọng những thỏa
ước này - đây cũng là cơ sở để QGVN yêu cầu người Pháp phải tôn trọng
sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống lại mọi sự chia cắt; coi sự
hiện diện của phái đoàn VNDCH ở Hội nghị là không có tính pháp lý.
Như đã nói ở trên, đến Hội nghị với những yêu cầu phù hợp với tương
quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải thỏa thuận vô điều kiện về
việc rút quân theo lịch trình ấn định, Việt Nam phải được thống nhất),
VNDCCH mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và có lập
trường đàm phán khá cứng rắn. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán, kết quả
Hội nghị thực sự là điều bất ngờ, là “viên thuốc đắng” mà VNDCCH phải cố
nuốt trôi: Thỏa thuận đạt được ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp
hơn là của VNDCCH[19]. Những nội dung mang tính then chốt được chính
thức ấn định tại Hội nghị (20-7-1954) chỉ mang lại cho VNDCCH nửa nước
trên bản đồ thế giới.
Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến 17, cả Võ
Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ ngàng. Hồ Chí Minh nói với
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh: “Với so sánh lực lượng trên thực tế chiến
trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta
là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành được vĩ tuyến 16”[20].
Jean Lacouture mô tả nỗi “ấm ức” của Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH: “Chung
quanh một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và
P.M.F (Pierre Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao
quanh Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy vẻ
đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh thổ của Việt Nam cộng
sản bị đẩy lùi dần từng cây số một về phía Bắc”[21]. Sau này,
Phạm Văn Đồng cay đắng thốt lên: “Chúng tôi có thể giành được nhiều
hơn, nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với Trung Quốc về mọi
điều. Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội đàm bí mật với Mandès France và
tất cả đều đã thay đổi”[22].
Ngay từ ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam đã hoài nghi về khả
năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp lo lắng tiên liệu: “Pháp
còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa
bình thống nhất Việt Nam”[23]
Với Quốc gia Việt Nam, tình hình còn tệ hại hơn nhiều. Tham
gia Hội nghị, QGVN chỉ tồn tại một cách hình thức bên cạnh phái đoàn
Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa Pháp và VNDCCH, đại biểu của QGVN
không được mời tham dự dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp
toàn thể, chỉ có các trưởng phái đoàn Pháp và VNDCCH đưa ra quan điểm và
thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái đoàn QGVN.
Ngày 17-7-1954, phái đoàn QGVN gửi Kháng nghị đến Pháp và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề xuất được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản Kháng nghị
khẳng định: “Không hề đếm xỉa đến ý chí đoàn kết dân tộc muôn người như
một của nhân dân Việt Nam”[24]. Phái đoàn QGVN yêu cầu: “Ngừng bắn phải
đi kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại Việt Nam; đặt
Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh,
trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để
nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự
do”[25]. Bản Kháng nghị lưu ý: “Đặt một Việt Nam thống nhất dưới
quyền kiểm soát của Liên Hợp Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở
một đất nước bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ”[26]. Tuy nhiên, những
kháng nghị của QGVN như được rót vào tai người điếc, không nhận được
bất kỳ phản hồi nào.
Tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ “yêu cầu
Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia Việt Nam dành cho mình quyền
hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt
Nam trong công cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ
sở”[27]. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố: “Chính phủ Quốc gia Việt Nam
long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không
tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt”[28], yêu cầu chèn thêm vào
bản Tuyên bố nội dung: "Hội nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ
của Nhà nước Việt Nam về cam kết thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực thiết
lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam; không sử dụng vũ
lực chống lại các thủ tục để lệnh ngừng bắn có hiệu lực, trong khi Nhà
nước Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối được nêu lên ở Tuyên bố cuối
cùng”[29]. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng. Thất vọng vì “người Pháp đã
trơ trẽn và bất chấp luật lệ bán rẻ lợi ích của Quốc gia Việt Nam”[30],
trả lời phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: “Phái đoàn quốc gia
Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình chiến. Từ khi đến Genève,
phái đoàn không hề được hỏi ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân
ranh và thời hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này đều được thảo luận tại
những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia Việt Nam không thể bày
tỏ quan điểm”[31]. Tức tưởi, chán nản, bất lực, từ Genève, Trần Văn Đỗ
gửi điện xin từ chức.
Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
QGVN Phan Huy Quát tuyên bố: “Chia cắt Việt Nam sẽ dẫn tới nguy cơ làm
dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam (…) Đình chiến và
phân vùng sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguy hiểm hơn”[32]. Với quan
điểm tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: “Đình chiến và chia cắt
lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để ngăn chặn sự đổ máu,
nhưng không thể chấm dứt chiến tranh. Và có thể, người Việt Nam sẽ phải
đối mặt với một cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi quân đội của cả hai
bên luôn đặt ngón tay lên cò súng”[33].
Căn cứ trên điều khoản “không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này” của Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam (4-6-1954), QGVN tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong Official record của U.S. Senate Subcommittee,
thì có ít nhất hai lý do khẳng định QGVN vẫn bị ràng buộc: 1- Chính phủ
này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ; 2- Phụ
thuộc vào Pháp về quốc phòng[34].
3- Nền hòa bình vỡ vụn
Hiệp định Genève đã không hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau 8 phiên
họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp hết sức căng thẳng với những màn đấu
trí, đấu lực gay gắt, những “lỗ hổng” trong Hiệp định Genève đã đặt Đông
Dương trên bờ vực của một cuộc chiến tranh mới.
Ngay khi những tin tức của Hiệp định Genève và những điều khoản
chuyển quân của nó được công bố, nhiều người miền Bắc rơi vào tình trạng
lo âu, phấp phỏng. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, cuộc di cư của
một bộ phận người miền Bắc bắt đầu. Đến năm 1956, khoảng 880.000 người
đã di cư vào Nam, trong đó có 750.000 người Công giáo (chiếm 85% số
lượng người di cư)[35]. Quyết định áp đặt mô thức Triều Tiên cho Việt
Nam của các nước lớn đã dẫn đến cuộc “thiên di lịch sử”, gây nên cảnh ly
tán của hàng trăm ngàn gia đình kẻ Bắc, người Nam. Nỗi đau chia cắt đã
làm vỡ vụn nền hòa bình chưa kịp đến.
Trên bàn cờ của các nước lớn, cả VNDCCH và QGVN đều là những thực thể chính trị lẻ loi, không đủ sức thoát khỏi ảnh hưởng và những sắp đặt sẵn của các nước lớn đồng minh hoặc không đồng minh.
Đối với VNDCCH, lựa chọn ý thức hệ cộng sản, tin tưởng ở chủ nghĩa
quốc tế vô sản, chưa đủ mạnh về quân sự, cô lập về ngoại giao… những yếu
tố đó đan quyện, chi phối, dần dần dẫn đến sự phụ thuộc của Chính phủ
Hồ Chí Minh vào Liên Xô và nhất là vào Trung Quốc. Sự phụ thuộc đó bắt
đầu từ năm 1950 (khi Trung Quốc đẩy mạnh viện trợ và đồng ý gửi cố vấn
quân sự, kinh tế - tài chính, tổ chức… giúp Việt Nam kháng Pháp), tích
tụ và để lại hậu quả “nhỡn tiền” tại Genève - VNDCCH đã không thể đưa ra
và thực hiện một chiến lược hiệu quả trên “đấu trường” giữa các nước
lớn.
Tiến hành kháng chiến chống Pháp trong thế bị bao vây, cô lập, thiếu
kinh nghiệm đàm phán, nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chính sách
của các nước lớn[36], có một “niềm tin chân thực”, tương đối “ngây thơ”
đối với đồng minh và đặc biệt bị xiết chặt bởi “vòng kim cô” ý thức hệ,
VNDCCH đã không (hoặc không đủ tỉnh táo) xem xét, nghiên cứu phương án
“đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc” mà QGVN đưa ra. Bước
trượt ấy rất có thể đã khiến cả hai miền Nam, Bắc lỡ một nhịp trên con đường hòa hợp.
Giúp đỡ nhiều mặt của Mao Trạch Đông cho cuộc kháng chiến chống Pháp
đã khích lệ Chính phủ VNDCCH, tạo những hi vọng lớn lao về nền độc lập
không xa; đồng thời, những điều đó đã khiến lãnh đạo VNDCCH không kịp
nhận ra rằng, Trung Quốc đang “đầu tư” vào chiến tranh Đông Dương, biến
Việt Nam thành lá chắn ngăn chặn đường tấn công và xâm nhập của Hoa Kỳ.
Siêu cường không thể không có vệ tinh – Trung Quốc dần đưa Việt Nam vào
vùng ảnh hưởng, vào quỹ đạo của Trung Quốc. Một Việt Nam giàu mạnh, độc
lập với Trung Quốc, có quan hệ ngoại giao rộng rãi với nhiều nước nhất
định sẽ “thoát Trung”, sẽ không thể là chư hầu - đó cũng là lý do Trung
Quốc “sốt sắng” với giải pháp chia cắt Việt Nam, ủng hộ để Việt Nam rút
quân khỏi Lào và Campuchia.
Cũng vì tin tưởng đồng mình, VNDCCH đã không thấy rằng, dường như
mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định.
I.V. Gaiduk bình luận: “Đến Moscow vào đêm trước của Hội nghị Genève,
phái đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng
dẫn đầu đã không được thảo luận về phương thức, con đường giải quyết vấn
đề Đông Dương, mà chỉ còn cách đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối
hợp thực hiện những vấn đề về chiến thuật”[37]. Dưới áp lực của Liên Xô,
Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng, các yêu cầu
đàm phán của VNDCCH buộc phải hạ thấp dần, chỉ có Chu Ân Lai có được
“tất cả mọi thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước”[38].
Cuối cùng, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên “vĩ
tuyến 17” đã không mang đến thậm chí là “nền hòa bình mong manh”. Hai
miền đất nước, hai chế độ và 21 năm chiến tranh đằng đẵng… lịch
sử Việt Nam ở thời điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi “giải pháp”
của những “người ngoài cuộc”. “Vị đắng” Genève còn rơi rớt đến bây giờ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét