Từ bao lâu nay, Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền xuyên tạc chế độ dân
chủ tự do của miền nam Việt Nam trước 1975 là một chính quyền ác ôn, tay
sai Đế quốc, hà hiếp áp bức nhân dân. Những người chưa sống dưới chế độ
dân chủ tự do của miền nam VN mắc tuyên truyền CS đã có thành kiến xâu,
cho rằng Ngụy quyền Sài Gòn chỉ là một chính thể áp bức bóc lột, bán
nước, mất lòng dân bị mọi người oán ghét nên đã sụp đổ vào ngày
30/4/1975.
Sự thực thì khác hẳn, Việt Nam Cộng Hòa bên dưới vĩ tuyến 17 trước
đây rất hiền, tự do, hiếu khách. Vì quá dễ dãi, tự do không kiểm soát
chặt chẽ nên CS mới có cơ hội trà trộn khắp nơi như tại nhà thờ, chùa
chiền, trường học và ngay cả trong quân đội và các cơ quan công quyền.
Chính vì quá tự do dễ dãi mà Cộng Sản đã đem được nhiều súng đạn và cán
binh trà trộn vào Sài Gòn trong trận tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Trước 1975 miền nam VN là một quốc gia dân chủ tự do thực sự theo
tiêu chuẩn các nước Tây phương, tổ chức theo nguyên tắc phân quyền: Lập
pháp, Hành pháp và Tư pháp. Mặc dù có khuyết điểm nhưng là một nước
trong tình trạng chiến tranh, miền nam VN vẫn duy trì được tinh thần tự
do, dân chủ, không lợi dụng chiến tranh để trở thành độc tài như nhiều
nước khác. Một bằng chứng hiển nhiên ai cũng thấy, trong khi chiến sự
diễn ra khốc liệt khắp nơi, người dân vẫn được quyền biếu tình chống
Nguyễn Văn thiệu, đả đảo Thiệu-Kỳ, báo chí được tự do chỉ trích công
khai guồng máy cai trị không hề bị tù đầy, bắt bớ.
Sau đây là những nét cơ bản của nền Dân chủ Tự do của Việt Nam Cộng
Hòa ngày xưa, nó cũng giống như các nước tân tiến hoặc như các nước khác
trong khu vực Đông Nam Á. Dưới đây là những thành quả, những khía cạnh
chính mà miền nam VN đã đạt được. Nước Việt Nam tự do dân chủ trong
tương lai sẽ chính là mô hình này
Các quyền Tự do căn bản.
Miền nam Việt Nam trước 1975 đã được Hoa Kỳ giúp đỡ trở thành nước dân chủ tự do để hòa hợp với cộng đồng Thế Giới Tự Do. Tự do bầu cử và ứng cử- Người dân được tự do ứng cử vào các chức vụ
chính trị về hành pháp cũng như lập pháp. Cử tri đủ 18 tuổi đều được đi
bầu lựa chọn người đại diện tại Quốc hội cũng như lựa chọn người lãnh
đạo. Nay trên thế giới còn nhiều nước độc tài, chính quyền không do dân
bầu, đó là những chính quyền bất hợp pháp.
Tự do ngôn luận – Từ thời xa xưa tại Việt Nam Cộng Hòa, báo chí được quyền chỉ trích sai trái của chính phủ một cách công khai, sinh hoạt báo chí trước 1975 tự do bình đẳng. Tại Sài Gòn có hằng trăm tờ báo, hầu hết do tư nhân điều hành không bị mua chuộc hoặc bị áp lực theo đường lối của chính phủ. Mặc dù có bị kiểm duyệt để không bị địch xâm nhập tuyên truyền vì đang trong tình trạng chiến tranh nhưng đã được tự do thể hiện ý kiến riêng về mọi phương diện chính trị, quân sự, văn hóa xã hội. Nhiều tờ báo đã công khai chỉ trích những khuyết điểm của chính phủ mà không bị đóng cửa hoặc bị làm khó dễ.
Người dân được nói cái mình muốn nói, được biểu lộ sự phản kháng,
biểu tình chống chính phủ, được thành lập đảng phái đối lập, được tự do
hội họp, được quyền tự do tư tưởng, được đọc và viết điều mình muốn,
sách báo không bị kiểm duyệt hoặc chỉ bị kiểm duyệt hạn chế. Người dân
được đọc sách báo nhập từ ngọai quốc trái với tình trạng ngày nay, sách
báo ngoài Hải ngoại gửi về bị vất vào thùng rác. Nay trong nước báo chí
đều thuộc về nhà nước, chính quyền không công nhận báo chí tư nhân.
Tự do sáng tác – Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ được tự do sáng tác theo cảm hứng của mình, nghệ thuật không bị gò ép trong khuôn khổ. Nhờ tự do sáng tác nên nghệ thuật miền nam đã phong phú hơn miền Bắc. Về văn hóa, miền nam trước 1975 đã xuất bản được nhiều sách giá trị về lịch sử, văn học, khoa học, triết học. Tiếng Việt, văn Việt thời VNCH trong sáng, mạch lạc, văn vẻ nay suy thoái nhiều. Các nhà sử gia, nhà nghiên cứu được vô tư trong biên soạn nên văn hóa miền nam đã phát huy phong phú một thời, sau 30/4/1975 các sách vở in tại miền nam VN đã bị đem đốt hết, ngày nay họ cho in lại nhiều sách giá trị.
Tự do cư trú và đi lại – Người dân muốn ở đâu tùy thích, tùy theo
mình lựa chọn, muốn ở tỉnh nào, miền nào cũng được không bị bắt ép như
chế độ hộ khẩu của miền Bắc và trong nước hiện nay. Người dân muốn vào
miền Nam ra miền Trung tùy tiện chỉ cần mua vé máy bay, xe đò không bao
giờ phải xin giấy thông hành mặc dù trong tình trạng chiến tranh.
Tự do tôn giáo – Chính phủ tôn trọng và giúp đỡ các đạo Phật, Thiên
Chúa, Cao Đài, Hòa Hảo.. hành đạo và mở rộng hơn lên . Nhà cầm quyền
không chiếm đoạt, đụng chạm tới tài sản các tôn giáo như đất đai, nhà
thờ, chùa chiền… Không xen vào việc tổ chức các tôn giáo và không buộc
tôn giáo phải theo chính phủ như hiện tình trong nước hiện nay. Trong khi đó tại miền nam VN, từ sau 1975 nhiều tài sản tôn giáo như
Trung tâm Thanh niên Phật tử, nhiều nhà thờ Thiên chúa giáo bị chính
quyền CS chiếm làm trường đảng, cơ quan nhà nước.
Kinh Tế Thương mại
Chính phủ chủ trương kinh tế tự do hay kinh tế tư bản trái với kinh
tế chỉ huy của miền Băc hồi ấy. Người dân được tự do bỏ vốn kinh doanh,
mở cửa hàng, công ty xí nghiệp. Nhờ tự do buôn bán sán xuất, nhờ giao
thương với các nước trên thế giới mà miền nam trước 1975 đã có bộ mặt
tiến bộ phồn thịnh. Các khu kỹ nghệ Đà nẵng, Biên Hòa, các nhà máy dệt,
viện bào chế… đã sản suất được nhiều mặt hàng tiêu dùng có phẩm chất tốt
như vải, lụa, thuốc tây, sà phòng, chăn mền…
Trái với chính sách bế quan tỏa cảng của miền Băc hồi ấy, nhờ giao
thương rộng rãi với các nước trong khối Thế giới Tự do mà kinh tế miền
nam phồn thịnh hơn trước. Các đường phố, hệ thống đường liên tỉnh được
mở mang rộng lớn, giao thông tiện lợi. Sài Gòn và các thành phố lớn đã
xây cất thêm nhiều nhà cao tầng, chung cư cho giới bình dân. Sài Gòn và
các tỉnh đã tiến bộ mở mang nhiều trong khoảng 10 năm từ giữa thập niên
60.
Về canh nông chính sách “Người cày có ruộng” đầu thập niên 70 đã dần
dần xóa bỏ bất công có từ thời Pháp thuộc, chính phủ mua lại đất của các
điền chủ, địa chủ để phân chia cho nông dân, đó là cuộc cách mạng ôn
hòa giải quyết tệ trạng bất công xã hội. Tình trạng chiến tranh gây
thiếu hụt nên miền nam vẫn phải nhập cảng thêm gạo của Thái Lan.
Sau ngày 30/4/1975, bà Dương Thu Hương cán bộ viêt tuyên truyền Cộng
Sản vào Sài Gòn đã ngồi bệt xuống đất khóc : Đây là cuộc chiến tranh ngu
xuẩn nhất, một nước văn minh bị một nước lạc hậu xâm lăng!
Giáo Dục
Nền giáo dục miền nam VN trước đây chịu ảnh hưởng của người Pháp, thi
cử khó khăn, nhất là những năm đầu thập niên 60 trở về trước, số thí
sinh trúng tuyển thi Tú tài tại Sài Gòn qua các Hội đồng với tỷ lệ
thường là 15 %. Văn bằng Tú tài hồi ấy tương đương với Tú tài Pháp, từ
những năm 1966 trở đi việc thi cử chịu chút ảnh hưởng Mỹ có phần cởi mở
hơn trước nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng Pháp. Khoảng giữa thập niên 60
chính phủ Pháp đã ký với chính phủ VNCH một thỏa thuận theo đó họ công
nhận văn bằng tại miền nam miền nam nhất là về khoa học gần tương đương
với văn bằng Pháp, về bằng bác sĩ y khoa họ công nhận tới năm thứ 6,
bằng dược sĩ tới năm thứ 5, có nghĩa là được công nhận khoảng 90%. Thập
niên 60, 70 chính phủ VNCH đã đưa nhiều sinh viên đi du học tại ngoại
quốc nhất là Mỹ, Pháp bằng phương tiện tự túc hoặc học bổng. Một ưu điểm
của nền giáo dục miền nam VN thời ấy là thi cử rất nghiêm chỉnh, không
hề có nạn làm bằng giả, thi dùm như trong nước hiện nay.
Bậc tiểu học hoàn toàn miễn phí, nhà nghèo, nhà giầu đều theo học một
trường không phân biệt giai cấp. Tại bậc trung học các trường công lập
tuyển học sinh qua thi tuyển công bằng, rất ít trường hợp thiên tư thiên
vị. Các trường trung học tư thục phụ giúp chính phủ vì không đủ sức lo
cho tất cả các con em. Bậc Đại học tại Sài Gòn đều miễn phí, sinh viên
chỉ phải đóng khoản tiền ghi danh nhập học và tiền thi cuối năm. Mặc dù
bậc Trung học và Đại học có nhiều trường thu tiền học nhưng cũng vừa túi
tiền của người dân. Ngày nay trong nước việc học hành con em trở ngại,
các em gia đình nghèo không được cắp sách đến trường vì cha mẹ không đủ
tiền đóng học phí.
Năm 1982 trong một cuộc hội thảo tại bệnh viên Vũng Tầu, một bà dược sĩ gốc ngoài Bắc vào đã phát biểu. “Chế độ Ngụy mà chúng ta đánh đổ nó nhưng nó đào tạo các chuyên viên kỹ sư bác sĩ giỏi hơn chúng ta”. Đó là một sự thật ai cũng phải công nhận vì các giáo sư đại học VNCH
đại đa số tốt nghiệp bên Pháp, Mỹ…, Họ đã đào tạo được những người có đủ
năng lực. Nền giáo dục miền nam trước 1975 đã đào tạo các chuyên viên
khoa học kỹ thuật tương đương với các nước tân tiến, không thua kém gì
các chuyên viên tại Pháp
Luật pháp.
Tổ chức xã hội miền nam VN ngày xưa theo đúng các nguyên tắc dân chủ
tự do của các nước tân tiến, người dân VNCH đã được luật pháp bảo vệ tài
sản tính mạng, có tòa án xét xử có luật sư bào chữa. Các cơ quan an
ninh như cảnh sát chỉ được quyền bắt giam tình nghi phạm tội trong vòng
24 tiếng, nếu không có bằng cớ, tới giờ thứ 25 phải trả tự do ngay.
Trường hợp phạm pháp, bị can hoặc nghi can vẫn được thuê luật sư bào
chữa cho mình. Tôi có được đọc một bài báo xuân từ trong nước gửi ra,
người sinh viên CS nằm vùng đã ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông thoát khỏi
án tử hình do luật sư tại Sài Gòn bào chữa năm 1973, anh ta chỉ bị tù
chung thân, sau 1975 được thả về từ Phú Quốc.
Nhiều người CS đã thoát chết nhờ luật pháp nhân đạo của miền nam VN
trươc 1975. Mặc dù có khuyết điểm nhưng luật pháp VNCH, Công lý đã cho
người dân được sống bình yên, dễ thở không bị cường hào, cường quyền áp
bức như tình trạng chúng ta thấy ngày nay tại VN, chính quyền địa phương
cướp đạt tài sản đất đai của người dân một cách trắng trợn, dân oan đi
khiếu kiện đầy đường đầy chợ.
Tại Việt Nam sau 1975 các nhà tù mọc lên như nấm dưới danh hiệu
trường, trại cải tạo, thực ra chỉ là những trại tập trung khổng lồ theo
đúng khuôn mẫu của Sô viết, Trung Cộng để giam giữ con người lâu dài mà
không cần xét xử, chỉ một số ít được thả về sớm do hối lộ vàng bạc cho
những người có quyền. Con người có thể bị công an nhà nước bắt giam
không cần lý do hoặc chỉ là tình nghi. Họ có thể bị giam giữ vô thời
hạn, nhiều người bị giam giữ lâu dài, có người lên tới mười mấy năm.
Y Tế
Mặc dù y tế miền nam VN trước 1975 chưa được tân tiến như các nước
Pháp, Mỹ, Nhật.. nhưng nhìn chung cũng có nhiều tiến bộ. Thập niên 70
tại Chợ Lớn đã xây dựng thêm nhiều bệnh viện tư như Sùng Chính, Tiều
Châu. ..Nhà nghèo nhà giầu đều được chữa trị khác với tình trạng ngày
nay trong nước chỉ những người có tiền mới được nhà thương nhận chữa.
Mặc dù trước 1975 còn có bất công trong lãnh vực này, nhà giầu có phương
tiện được điều trị tại các nhà thương tư chăm sóc tôt hơn, hiệu quả hơn
nhưng nhà nghèo cũng được đón nhận vào các nhà thương công như bệnh
viện Chợ Rẫy, Gia Định… tình trạng chung các nước là người nghèo chịu
thiệt thòi hơn người giầu nhưng Bộ y tế cũng chú trọng tới sự chăm sóc
sưc khỏe của đa số người dân, tại các tỉnh đều có Ty y tế và các nhà
thương công.
Về phẩm chất bác sĩ, cán sự, y tá đã được đào tạo chu đáo tại các
trường Đại học y khoa. Như đã nói trên bác sĩ, y tá VNCH đều dã có tay
nghề chuyên môn cao và kiến thức y học vững chắc. Mặc dù còn có khuyết
điểm, việc chữa trị tốn kém nhất là đối với gia đình nghèo nhưng chính
phủ cũng cố gắng mở mang các nhà thương công và đào tạo thêm nhiền
chuyên viên y tế.
Trước 1975 các viện bào chế tại Sài Gòn đã sản xuất được hầu hết các
loại thuốc tây cần thiết để chữa trị, phẩm chất tương đương với thuốc
của Pháp, đó cũng là những bước tiến bộ đáng kể trong việc tự túc tự
cường. Trong một cuốn phim truyện của VN đã cho thấy những bệnh nhân đau
thận vào bệnh viện chạy điện đều phải đóng tiền trước hàng ngày, chữa
bệnh theo kiểu “tiền trao cháo múc”. Vào bệnh viện phải có tiền đóng
trước như vậy người nghèo chắc đành chịu chết, cuốn phim cho thấy một
gia đình phải bán nhà để chữa bệnh thận và thay thận cho cô con gái là
sinh viên. Giữa thế kỷ 21 mà có chuyện bán nhà để chữa bệnh thật là bi
thảm.
Đạo đức xã hội
Những năm đầu thập niên 60, miền nam VN là một xã hội có tổ chức
nghiêm chỉnh, chịu ảnh hưởng sâu xa của giáo lý Khổng Mạnh, con người có
nhân phẩm, gia đình và học đường giáo dục đạo đức luân lý cho con em để
trở thành con người tốt của xã hội. Từ giữa thập niên 60 có bị sa xút
do ảnh hưởng của ngoại quốc nhưng tựu chung vẫn cón nền nếp. Phim ảnh,
văn nghệ đều có kiểm duyệt của bộ Thông tin để ngăn ngừa sự vi phạm
thuần phong mỹ tục.
Mặc dù có một số phương diện thoái hóa như mãi dâm, xì ke, ma túy,
trộm cướp… do tình trạng chiến tranh song đạo đức xã hội vẫn còn lành
mạnh. So với tình trạng trong nước hiện nay, trước cảnh xã hội sa đọa,
mãi dâm, băng đảng, xã hội đen.. tràn lan khiến nhiều người bi quan cho
rằng nếu chế độ CS sụp đổ thì cũng phải mất ít nhất ba thế hệ mới xây
dựng lại được một xã hội lành mạnh như xưa.
Tình trạng chung các nước nghèo, miền nam VN trước đây thường có tham
nhũng hối lộ nhưng mức độ người dân còn chấp nhận được không quá đáng
như tình trạng trong nước hiện nay. Hối lộ, đút lót tại VN hiện nay gần
như công khai, những người về thăm quê hương bị làm tiền ngay khi vừa
xuống phi trường. Các quan chức, đảng viên cao cấp hiện là sở hữu chủ
những tài sản không lồ gồm nhà hàng, khách sạn, đất đai, xí nghiệp…, họ
chuyển ngân những tài khoản lớn ra nước ngoài và cho con cái du học để
chuẩn bị “Tẩu vi thượng sách” khi tình hình đòi hỏi.
Trước 1975, tại VNCH có bất công xã hội, phe đảng nhưng tương đối con
người còn được hưởng công bằng nó chưa đến nỗi ghê tởm như ngày nay.
Khi tài sản tập trung trong tay một thiểu số người gồm các Đảng viên
gộc, tư sản đỏ, bà con nội ngoại của các viên chức chính quyền, người
dân lao động với đồng lương chết đói sống lây lấy qua ngày. Hố cách biệt
giầu nghèo nay ngày càng được đào sâu hơn.
Tại miền nam trước đây, con cái các ông lớn không được ưu đãi gì hơn
con nhà thường dân, nay con cái Đảng viên cán bộ được nhà nước cho hưởng
ưu quyền đặc lợi gần như công khai. Hố bất công xã hội ngày càng sâu
rộng hơn, con quan thì lại làm quan.
Việt Nam trong tương lai
Trước thập niên 90, trên giới có 17 nước xã hội chủ nghĩa nay rút lại
chỉ còn 4 nước : Tầu, Việt Nam, Bắc Hàn, Cuba, nay phong trào lật đổ
các chế độ độc tài tại khối Ả Rập, Phi châu khiến cho công cuộc dân chủ
hóa toàn cầu được đẩy mạnh. Ngày 14/7/1789 dân Pháp phá ngục Bastille,
đánh dấu ngày tàn của chế độ phong kiến. Nay chế độ độc tài ở nhiều nước
trên thế giới đang rơi rụng dần dần, nguyên do thế kỷ 21 người ta không
chấp nhận độc tài. Dưới con mắt người Tây phương, độc tài được coi như
một biểu tượng của mọi rợ, một vết nhơ trong lịch sử nhân loại.
Nay người dân tại khắp nơi trên thế giới, cũng như hầu hết các nước
trên thế giới đều đã không chấp nhận chế độ độc tài, người ta “say no”
với chế độ mọi rợ này. Chính quyền tại các nước độc tài không do người
dân bầu ra chỉ là những chính quyền bất hợp pháp.
Các nhà lãnh đạo CS Tầu và VN hiện còn cố bám víu vào quyền lợi riêng
tư của tập đoàn thống trị, của gia đình họ nhưng không thể quay ngược
bánh xe lịch sử. Việt Nam sẽ là một nước dân chủ tự do, đó là một tất
yếu lịch sử, vấn đề nhanh hay chậm tùy thuộc vào sự tranh đấu của người
dân trong nước, hải ngoại chỉ có thể yểm trợ về mặt tinh thần. Nước Việt
Nam Dân chủ Tự do trong tương lai sẽ không phải là Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam , cũng sẽ không phải là Việt Nam Cộng Hòa, quốc kỳ sẽ
không phải là cờ đỏ hay cờ vàng nhưng kiến trúc của nó sẽ giống hệt như
cơ cấu của miền nam Việt Nam ngày xưa. Nước VNCH ngày xưa đã là một nước
dân chủ tự do thực sự, cơ cấu của nó sẽ là mô hình tổ chức cho nước
Việt Nam trong tương lai.
Nay nhiều người trong nước cho rằng tại hải ngoại những người tranh đấu cho công cuộc dân chủ hóa đât nước để rồi sẽ trở về chia chác hoặc lấy lại quyền hành đã mất. Sự thực không phải như vậy, những người đã di tản ra ngoại quốc lâu năm đa số đã có tài sản, sự nghiệp hoặc nghề nghiệp vững chắc, con cháu họ đều đã thành đạt, sẽ không có chuyện họ trở về sinh sống hoặc chia chác miếng đỉnh chung như nhiều người nghĩ. Sự yểm trợ của người Hải ngoại xuất phát tự lòng yêu nước, tinh thần thiết tha với quê hương dân tộc. Nước Việt Nam trong tương lai sẽ là một nước Việt Nam tự do theo đúng như mô hình của VNCH ngày xưa vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét